PHÂN TÍCH MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TRẢI NGHIỆM NGƯỜI BỆNH ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH, NĂM 2020

Trần Thị Lý1, Trần Bảng Đại2, Cao Ánh Ngọc3
1 Bệnh viện Phổi Trung ương
2 Bệnh viện đa khoa Quốc Ánh, TP HCM
3 Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Đo lường trải nghiệm người bệnh đem lại lợi ích cho toàn bộ hệ thống chăm sóc sức
khỏe: cho người bệnh, cho đơn vị cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, cho các nhà lãnh đạo y tế và
cho các nhà hoạch định chính sách.
Mục tiêu: Phân tích một số yếu tố liên quan đến trải nghiệm người bệnh điều trị nội trú tại Khoa Nội
tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định, năm 2020.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang
Kết quả: Kết quả nghiên cứu về trải nghiệm của 320 NB cho thấy, 81,1% NB trải nghiệm mức bình
thường (từ 6-8 điểm). 16,1% NB trải nghiệm tích cực (từ 9-10 điểm). Tuổi, giới tính, tình trạng kinh
tế có liên quan đến trải nghiệm tích cực của NB. Những trải nghiệm lúc nhập viện, trải nghiệm về
cơ sở vật chất, về hoạt động khám chữa bệnh và trước lúc xuất viện đều có liên quan tới việc chấm
điểm bệnh viện.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Wolf J, Niederhauser V, Marshburn D et al.,
Defining Patient Experience. Patient Experience
Journal, 1(1), 7–19, 2014.
[2] What Is Patient Experience?. gov/cahps/about- cahps/patient-experience/
index.html>, truy cập: 23/02/2020.
[3] Kết quả khảo sát trải nghiệm người bệnh nội trú tại
các bệnh viện trên địa bàn thành phố Hồ Chí minh
6 tháng đầu năm 2019 | Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh.
quan-ly-chat-luong-kham-chua- benh/ket-quakhao-
sat-trai-nghiem-nguoi-benh-noi-tru-taicac-
benh-vien- tren-dia-ban-cmobile8-16295.
aspx>, truy cập ngày: 18/3/2020.
[4] Nguyễn Thị Huyền Trâm, Trải nghiệm của người
bệnh điều trị nội trú tại khoa Ngoại, Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội năm 2018 và một số yếu tố
liên quan, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại
học Y Hà Nội, 2019.
[5] Elliot M, Lehrman W, Beckett M et al., Gender
differences in patients’ perceptions of inpatient
care. Health Serv Res, 47(4), 1482–1501, 2012.