15. THÀNH PHẦN LOÀI, PHÂN BỐ MUỖI ANOPHELES VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐT MỒI CỦA VÉC TƠ SỐT RÉT TẠI XÃ PA VỆ SỦ VÀ TÁ BẠ, HUYỆN MƯỜNG TÈ, LAI CHÂU NĂM 2024
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định thành phần loài muỗi Anopheles spp. và hoạt động đốt mồi của véc tơ sốt rét tại xã Pa Vệ Sủ và Tá Bạ, Mường Tè, Lai Châu. Phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 7 - 12 năm 2024 tại Pa Vệ Sủ và Tá Bạ, Mường Tè, Lai Châu. Toàn bộ các loài muỗi Anopheles spp. tại hai sinh cảnh được thu thập bằng các phương pháp điều tra theo qui trình của Viện sốt rét Ký sinh trùng –Côn trùng Trung ương.
Kết quả: Tổng số loài Anopheles spp.thu thập được tại các điểm là 11 loài. Ở Pa Vệ Sủ 11 loài, Tá Bạ 10 loài. Có 2 véc tơ phụ: An. maculatus và An. sinensis tại các điểm điều tra. Ở Pa Vệ Sủ, trong khu dân cư thành phần loài cao hơn (10 loài) so với khu vực rẫy (5 loài). Véc tơ An. maculatus, An. sinensis tại khu dân cư và khu vực rẫy chiếm tỷ lệ cao lần lượt là 39,33%, 42,51% và 51,76%, 45,42%. Thời gian đốt người của 2 véc tơ này ở ngoài nhà chiếm tỷ lệ cao hơn so với trong nhà lần lượt là 83,58%, 81,26% so với 16,42%, 18,74% (với p <0,05). Ở Tá Bạ, trong khu dân cư thành phần loài cao hơn (9 loài) so với khu vực rẫy (7 loài). Véc tơ An. maculatus, An. sinensis tại khu dân cư và khu vực rẫy chiếm tỷ lệ cao lần lượt là 43,25%, 46,18% và 42,06%, 54,41%. Thời gian đốt người của 2 véc tơ này ở ngoài nhà chiếm tỷ lệ cao hơn so với trong nhà lần lượt là 82,34%, 82,78% so với 17,66%, 17,22% (với p <0,05).Hoạt động đốt mồi ngoài nhà và trong nhà diễn ra từ 18 giờ - 24 giờ, trong đó thời gian đốt mồi ngoài nhà mạnh nhất từ 20 giờ - 22 giờ.
Kết luận: Thành phần các loài muỗi ở 2 xã Pa Vệ Sủ và Tá Bạ đa dạng ở trong khu dân cư, ở khu vực rẫy có thành phần loài ít hơn. Véc tơ An. maculatus và An. sinensis chiếm tỷ lệ cao ở cả khu dân cư và khu vực rẫy. An. maculatus và An. sinensis có hoạt động đốt mồi diễn ra trong suốt thời gian từ 18 giờ - 24 giờ, trong đó đốt mồi của chúng ở ngoài nhà cao hơn trong nhà và thời gian đốt mồi ngoài nhà mạnh nhất từ 20 giờ - 22 giờ.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Anopheles, thành phần loài, hoạt động đốt mồi
Tài liệu tham khảo
[2]. Đào Minh Trang, Vũ Đức Chính, Ngô Đức Thắng, Bùi Lê Duy, Nguyễn Quốc Việt, Phạm Thị Thanh Vân, Đặng Việt Dũng, Nguyễn Quang Thiều (2020). Xác định thành phần loài, mật độ, hoạt động đốt mồi, độ nhạy cảm với hóa chất diệt côn trùng của muỗi Anopheles tại xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, năm 2020. Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 1 (121), trang 10 – 16.
[3]. Bùi Lê Duy, Hoàng Đình Cảnh, Nguyễn Quang Thiều, Thái Khắc Nam, Nguyễn Văn Dũng, Đào Minh Trang, Nguyễn Hải Sông, Nguyễn Quốc Việt, Hoàng Thị Ánh Tuyên, Lê Thanh Thảo (2024) đánh giá tương quan giữa sự phát triển của các quần thể muỗi anopheles với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm ở huyện mường tè, tỉnh Lai Châu, Tạp chí phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, 4(142), Tr.11-18.
[4]. Vũ Đức Chính, Bùi Lê Duy, Vũ Việt Hưng, Nguyễn Hải Sông, Đào Minh Trang (2017), “Thành phần loài Anopheles theo sinh cảnh và hoạt động đốt mồi của vector sốt rét chính Anopheles dirus tại xã Sơn Thái, huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa”, Báo cáo Khoa học Hội nghị Côn trùng học Quốc gia lần thứ 9, Nhà xuất bản Nông nghiệp, tr.791-798.
[5]. Ismail I.A.H., Notananda V. & Schepens J. (1974), “Studies on malaria and responses of Anopheles balabacensis and Anopheles minimus to DDT residual spraying in Thailand”, Part I: Pre-spraying observations, Acta Tropic, 31, pp. 129-164.
[6]. Trương Văn Tấn (1996), Nghiên cứu muỗi sốt rét Anopheles Meigen 1818 (Diptera: Culicidae) tại Quảng Nam - Đà Nẵng và đề xuất biện pháp phòng chống, Luận án phó tiến sĩ chuyên nghành Côn trùng học, Đại học quốc gia Hà Nội.