EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF EPIDURAL ANESTHESIA AFTER CESAREAN SECTION AT NGHE AN PEDIATRICS AND OBSTETRICS HOSPITAL

Tang Xuan Hai1, Tran Minh Long1, Nguyen Van Ngoc1, Nguyen Nhu Que1
1 Nghe An Hospital of Obstetrics and Pediatrics

Main Article Content

Abstract

Objectives: The study was carried out with the aim of comparing the analgesic effect of local
anesthesia with general anesthesia in cesarean section at Nghe An Obstetrics and Children's
Hospital.
Methods: Research 120 patients undergoing cesarean section with ASA I and II, aged 18 to 42
years, who were divided into two groups: group A (n=60) decreased Post-operative pain with
anaropine combined with fentanyl via local anesthetic and group B (n=60) postoperative analgesia
with intravenous paracetamol and intramuscular morphine. Evaluation of results by monitoring
VAS pain scale, unwanted effects and complications in 24 hours after surgery.
Results: Results did not differ between the two groups in terms of age, weight, ASA, and time
of surgery. The average VAS pain score in group A was lower than in group B at all time points of
follow-up (p<0.05). In the first 24 hours after surgery, the rate of patient satisfaction in group A is
100%, of which 73.33% are very satisfied; group B, the rate of satisfied patients is 95%, of which
45% are very satisfied. Group A had 2 patients (3.33%) and MP group had 12 patients (20%) with
nausea and vomiting (p <0.05).
Conclusions: Epidural anesthesia with anaropine 0.1% plus fentanyl 1mcg/ml has analgesia
quality and maternal satisfaction (100% of women are satisfied, of which 73.33% are very satisfied)
better than analgesia with static paracetamol intramuscular morphine combination (95% of women
are satisfied, of which 45% are very satisfied) in cesarean section. Epidural anesthesia with
anaropine 0.1% plus fentanyl 1 mcg/ml is a safe technique, with fewer side effects and undesirable
effects (1.67% of women with itching and 3.33% of nausea and vomiting) than using intravenous
paracetamol combined with intramuscular morphine (20% of women have vomiting, nausea).

Article Details

References

1. Đỗ Văn lợi, “So sánh hiệu quả giảm đau
trong chuyển dạ của phương pháp gây tê ngoài
màng cứng do và không do sản phụ tự điều
khiển”. Luận văn Tiến sĩ Y học, Chuyên ngành
gây mê hồi sức, Trường Đại Học Y Hà Nội,
2017.
2. Trần Minh Long, “Đánh giá hiệu quả giảm
đau trong đẻ của Phương pháp gây tê ngoài
màng cứng do sản phụ tự kiểm soát bằng
anaropin phối hợp fentanyl”. Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp cơ sở. Chuyên ngành Gây mê Hồi
sức - Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, 2021.
3. Trần Đỗ Anh Vũ, Nguyễn Văn Chừng,
“Đánh giá hiệu quả và mức độ hài lòng của gây
tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật bụng
dưới”. Y học Tp Hồ Chí Minh, Tập 18(4), 82-
90, 2014.
4. Nguyễn Trung Kiên, Nguyễn Hữu Tú, Công
Quyết Thắng, “Nghiên cứu hiệu quả giảm đau
và ảnh hưởng hô hấp của giảm đau tự điều
khiển đường ngoài màng cứng ngực sau mổ
bụng trên ở người cao tuổi”. Y học thực hành
(835-836), 72-77, 2012.
5. Hoàng Xuân Quân, Nguyễn Quốc Kính, “So
sánh hiệu quả giảm đau sau mổ ngực do bệnh
nhân tự điều khiển qua đường ngoài màng cứng
bằng bupivacaine và fentanyl và morphin
đường tĩnh mạch”. Y học thực hành (835-836),
7-10, 2012.
6. Maheshwari V., Rasheed M., Singh R., et al.,
Comparison of ropivacaine with
levobupivacaine under epidural anesthesia in
the lower limb orthopedic surgeries: A
randomized study. Anesth Essays Res, 10(3),
624, 2016.
7. Kokki M., Heikkinen M., Kumpulainen E.,
et al., Levobupivacaine for Spinal Anesthesia in
Children: Cerebrospinal Fluid Aspiration
Before the Injection Does not Affect the Spread
or Duration of the Sensory Block. Anesth Pain
Med, 6(3), 2016.