REVIEW OF CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS AND TREATMENT RESULTS OF PATIENTS WITH PRIMARY IMMUNE THROMBOCYTOPENIA AT NGHE AN GENERAL FRIENDSHIP HOSPITAL IN 2023.

Ta thi Minh1, Nguyễn Thị Cần1, Phan Thi Lam2
1 Vinh Medicial University
2 Nghe An General Friendship Hospital

Main Article Content

Abstract




Research objective: Review the clinical and paraclinical characteristics and treatment results of patients with primary immune thrombocytopenia at Nghe An General Friendship Hospital in 2023.


Research methods: A descriptive study reported a series of cases of 53 patients with primary immune thrombocytopenia treated at the Department of Clinical Hematology, Nghe An General Friendship Hospital, from January to December 2023.


Research results: The average age in the study group was 50.6± 21.8 years old; The most common age group is 35-60 years old, accounting for 35.8%; Females account for a high rate of 81.1%; male/ female ratio = 1/4.3. Clinical characteristics: 96.2% (51/53) of patients were hospitalized for bleeding reasons; Spontaneous bleeding accounts for a high rate of 98.1%, of which simple subcutaneous bleeding accounts for the highest rate of 69.8%; Polymorphic haemorrhage forms account for the majority (79.2%). Paraclinical characteristics: The average platelet count at admission was 11.3 ± 8.4; 45.28% of patients had mild anaemia. The primary treatment regimen is conventional corticosteroids, accounting for 94.3%; The response rate to traditional corticosteroid regimens is 94.3%.


Conclusion: Primary immune thrombocytopenic is expected in the age group of 35 - 60 years old, with spontaneous bleeding, subcutaneous bleeding and simple bleeding forms accounting for the main proportion. Patients have a high response rate to treatment, with younger age groups responding lower than middle-aged and elderly groups.




Article Details

References

[1] Đại học Y Hà Nội, Tiểu cầu và bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu, Bài giảng Huyết học truyền máu sau đại học, NXB Y học, 2006, tr:235-247.
[2] Bộ Y tế, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý huyết học, Ban hành kèm theo Quyết định 1832/QĐ-BYT ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Y tế, 2022, tr 58-69.
[3] Nguyễn Tuấn Tùng, Nghiên cứu phân bố bệnh máu tại khoa Huyết học truyền máu bệnh viện Bạch Mai năm 2016-2017, Tạp chí Y học Việt Nam số 467, 2018, tr 320-326.
[4] Đoàn Văn Chính, Nghiên cứu mô hình và xu hướng thay đổi các bệnh lý huyết học tại Viện huyết học truyền máu trung ương giai đoạn 2010- 2014, Tạp chí Y học Việt Nam số 446, 2015, tr: 807-817.
[5] Bộ Y tế, Hướng dẫn chỉ định, sử dụng máu và các chế phẩm máu, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2020, tr 8-10.
[6] Hoàng Thị Thủy, Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị người bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu nguyên phát tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2022, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Y Thái Bình, 2022.
[7] Nguyễn Thị Thảo, Hiệu quả một số phác đồ corticoid điều trị bệnh nhân giảm tiểu cầu miễn dịch nguyên phát tại Viện Huyết học truyền máu trung ương, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 496, 2020, tr 397-404.
[8] Nguyễn Thị Miền, Nghiên cứu hiệu quả điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân bằng Corticoid liều cao, khoa luận tốt nghiệp bác sỹ đa khoa 2000 – 2006, 2006.
[9] Nguyễn Hồng Nga, Điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu chưa rõ nguyên nhân tại Bệnh viện truyền máu huyết học thành phố Hồ Chí Minh 1999- 2000, Tạp chí Y học Việt Nam số 6-7, 2000, tr 62-68.
[10] Nguyễn Văn Bông, Nghiên cứu hiệu quả điều trị Corticoid trong điều trị bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn tại BV trung ương Huế, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 396, 2012, tr 236-241.