21. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY TRÊN HAI LỒI CẦU XƯƠNG CÁNH TAY TRẺ EM BẰNG XUYÊN KIM QUA DA DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA

Trần Văn Phong1
1 Bệnh viện Bà Rịa

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay ở trẻ em là loại gãy xương thường gặp,chiếm 65,45% của gãy xương chi trên ở trẻ em theo Boyd và Altenberg.


Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị của phương pháp xuyên kim qua da chéo nhau dưới màn hình tăng sáng tại bệnh viện Bà Rịa.


Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bệnh nhân gãy trên 2 lồi cầu kiểu duỗi độ II, III theo phân loại của Gartland- Wilkins, đã được phẫu thuật trong năm 2014.


Kết quả: Lứa tuổi hay gặp từ 3 - 6 tuổi , chiếm (52,9%),Trẻ nam (67,6%) , Tay trái gặp nhiều hơn tay phải 1,42 lần. Nguyên nhân chủ yếu do tai nạn sinh hoạt (85,3%). Góc Baumann thay đổi < 6o ở thời điểm rút kim so với thời điểm sau xuyên kim (chiếm 85,3%), không có sự di lệch xoay thứ phát sau khi rút kim. Góc thân hành xương được đánh giá ở mức độ tốt (82,4%). Phục hồi biên độ vận động gấp duỗi khuỷu khá tốt (chiếm tỉ lệ 82,4% ) theo Flynn. Không có tổn thương thần kinh trụ sau xuyên kim.


Kết luận: Phương pháp xuyên kim qua da điều trị gãy xương cả 2 lồi cầu là phương pháp cố định khá chắc chắn, an toàn ít biến chứng.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Trịnh Minh Giám, Đánh giá kết quả điều trị gãy
trên lồi cầu xương cánh tay trẻ em bằng xuyên
đinh Kirschner qua da dưới màn tăng sáng,
Trường đại học Y Dược Huế; 2011.
[2] Huỳnh Mạnh Nhi, Khả năng giữ kết quả nắn và
tránh liệt thần kinh của kỹ thuật nắn kín và xuyên
kim qua da đơn thuần từ mặt ngoài khuỷu điều trị
gãy trên hai lồi cầu xương cánh tay tay di lệch ở
trẻ em, Hội nghị Chấn thương chỉnh hình TP Hồ
Chí Minh, 2007.
[3] Lê Hữu Phúc, Khảo sát tỉ lệ liệt thần kinh trụ
trong nắn kín xuyên kim gãy trên hai lồi cầu
xương cánh tay trẻ em, Luận văn nội trú Ngoại
Nhi, 2006.
[4] Lê Tất Thắng, Đánh giá kết quả bước đầu điều
trị gãy trên lồi cầu xương cánh tay trẻ em bằng
xuyên kim qua da lối ngoài dưới màn tăng sáng,
Y học TP Hồ Chí Minh, 2010.
[5] Phan Quang Trí, Điều trị gãy trên hai lồi cầu kiểu
duỗi ở trẻ em bằng nắn kín và xuyên kim qua da
dưới màn tăng sáng, Luận văn chuyên khoa II
Chấn thương Chỉnh hình, 2002.
[6] Aronson DC, Van Vollenhoven E, Meeuwis
JD, K-wire fixation of supracondylar humeral
fractures in children: results of open reduction
via a ventral approach in comparison with closed
treatment, Injury, 24, 1993, 179-181.
[7] Boyd DW, Aronson DD, Supracondylar
fractures of the humerus: a prospective study
of percutaneous pinning, J Pediatr Orthop, 12,
1992, 789-794.
[8] Dormans JP, Squillante R, Sharf H , Acute
neurovascular complications with supracondylar
humerus fractures in children, J Hand Surg [Am];
20, 1995, 1-4.
[9] Gartland JJ, Management of supracondylar
fractures of the humerus in children, Surg
Gynecol Obstet; 109, 1959, 145-154.
[10] Skaggs DL, Cluck MW, Mostofi A et al.,
Lateralentry pin fixation in the management of
supracondylar fractures in children, JBone Joint
Surg Am.; 86, 2004, 702 -7.
[11] Wilkins K, Beaty J, Fractures in children, 5th ed.
Philadelphia. Lippincott Williams & Wilkins,
2001, 563-620.