55. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CÁC NHÓM THỰC PHẨM Ở PHỤ NỮ MANG THAI ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG THEO ĐIỂM CẮT CỦA FAO

Nguyễn Thị Thu Liễu1,2, Nguyễn Phương Thảo1
1 Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội
2 Khoa Dinh dưỡng, Bệnh viện Phụ Sản Trung ương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả thực trạng tiêu thụ một số nhóm thực phẩm của phụ nữ mang thai theo điểm cắt ≥ 15g do FAO khuyến nghị.


Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 734 thai phụ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Khẩu phần ăn được thu thập bằng phương pháp nhớ lại 24 giờ. Các nhóm thực phẩm được phân loại theo hướng dẫn MDD-W (FAO), ngưỡng ≥ 15g được coi là có tiêu thụ.


Kết quả: Nhóm được tiêu thụ nhiều nhất là ngũ cốc (98,9%), thịt đỏ, gia cầm và cá (90,6%), sữa và sản phẩm từ sữa (79,2%), rau lá xanh đậm (64,3%) và các loại quả khác (76%). Nhóm ít được tiêu thụ nhất là các loại hạt (21,1%) và đậu (28,9%).


Kết luận: Phụ nữ mang thai có tỷ lệ tiêu thụ cao ở nhóm thực phẩm giàu năng lượng và động vật, trong khi tỷ lệ tiêu thụ các nhóm hạt, đậu và rau còn thấp.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] FAO, FHI 360. Minimum Dietary Diversity for Women: A Guide for Measurement. Rome, FAO, 2016.
[2] Tsoi K.Y, Chan R.S, Chan D, Li L.S, Ho C.S, Chan F.Y et al. Dietary intakes and nutritional status of pregnant women in Hong Kong: a cross-sectional study. BMC Pregnancy Childbirth, 2022, 22 (1): 717.
[3] Desta M, Akibu M, Tadese M, Tesfaye M. Dietary diversity and associated factors among pregnant women attending antenatal clinic in Shashemane, Oromia, Central Ethiopia: a cross-sectional study. J Nutr Metab, 2019, 2019: 3916864.
[4] Nguyễn Thị Thu Liễu, Nguyễn Thị Anh Trúc, Đinh Bích Thủy. Thực trạng thiếu máu và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương năm 2023. Tạp chí Y học Việt Nam, 2024, 534 (1), tr. 136-141.
[5] Alemu F.T, Desta A.A, Tola A.G. Dietary diversity and associated factors among pregnant women attending antenatal care at public hospitals in North Shewa, Oromia, Ethiopia, 2023. Front Nutr, 2024, 11: 1400813.
[6] Menber Y, Gashaw S, Belachew T, Fentahun N. Validation of the minimum dietary diversity for women as a predictor of micronutrient adequacy among lactating women in Ethiopia. Front Nutr, 2024, 11: 1459041.
[7] Teng Y, Jing H, Chacha S et al. Maternal Dietary Diversity and Birth Weight in Offspring: Evidence from a Chinese Population-Based Study. International Journal of Environmental Research and Public Health, 2023, 20 (4): 3228.
[8] Hossain Z, Uddin J, Rahman M, Uddin S, Ahmed T. Determinants of minimum dietary diversity for lactating and pregnant women. PLoS One, 2024, 19 (10): e0309213.
[9] Mohammed F, Abdirizak N, Jibril A, Oumer A. Correlates of minimum dietary diversity among pregnant women on antenatal care follow up at public health facility in Puntland, Somalia. Sci Rep, 2023, 13: 21935.
[10] Bukari M, Saaka M, Masahudu A et al. Household factors and gestational age predict diet quality of pregnant women. Maternal & Child Nutrition, 2021, 17(3): e13145.
[11] Shrestha V, Paudel R, Sunuwar D.R, Lyman A.L.T, Manohar S, Amatya A. Factors associated with dietary diversity among pregnant women in the western hill region of Nepal: A community based cross-sectional study. PLoS ONE, 2021, 16 (4): e0247085.
[12] Bộ Y tế. Hướng dẫn Quốc gia về dinh dưỡng cho phụ nữ có thai và bà mẹ cho con bú (ban hành kèm Quyết định số 776/-BYT ngày 08 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế).
[13] Kebede A.N, Sahile A.T, Kelile B.C. Dietary Diversity and Associated Factors Among Pregnant Women in Addis Ababa, Ethiopia, 2021. Int J Public Health, 2022, 67: 1605377.