49. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ CHĂM SÓC SẢN PHỤ SAU MỔ LẤY THAI TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI KIÊN GIANG

Mai Trọng Hưng1, Nguyễn Thị Tú Anh2, Phạm Việt Hà3, Trương Quang Vinh1,4
1 Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội
2 Bệnh viện Sản Nhi Kiên Giang
3 Trường Đại học Thăng Long
4 Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả một số yếu tố liên quan đến kết quả chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai Bệnh viện Sản Nhi Kiên Giang.


Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, lựa chọn các sản phụ mổ lấy thai với tuổi thai từ 38-40 tuần.


Kết quả: Tuổi ≤ 35 liên quan đến kết quả chăm sóc chưa tốt với OR = 2,1; 95% CI từ 1,1-3,6 (p < 0,05). Trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở xuống liên quan đến kết quả chăm sóc chưa tốt với OR = 3,3; 95% CI từ 1,6-6,9 (p < 0,05). Biến chứng nhiễm trùng tiết niệu làm tăng nguy cơ kết quả chăm sóc chưa tốt với OR = 9,4; 95% CI từ 3,9-23,1 (p < 0,05). Biến chứng nhiễm trùng vết mổ làm tăng nguy cơ kết quả chăm sóc chưa tốt với OR = 4,3; 95% CI từ 1,8-10,5 (p < 0,05).


Kết luận: Trình độ học vấn, nơi ở, dân tộc, thời gian nằm viện, các biến chứng sau mổ có mối liên quan chặt chẽ đến kết quả chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Huỳnh Thị Mỹ Dung. Khảo sát tình hình chăm sóc bà mẹ sau mổ lấy thai tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2017. Khóa luận tốt nghiệp đại học điều dưỡng, Trường Đại học Tây Đô, 2017.
[2] Nguyễn Ngọc Quí. Kết quả chăm sóc sản phụ sau mổ lấy thai và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đa khoa quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ năm 2020-2021. Luận văn thạc sĩ điều dưỡng, Trường Đại học Thăng Long, 2021.
[3] Chu Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Phong, Trần Hữu Vinh. Mô tả nhu cầu chăm sóc của sản phụ sau mổ lấy thai tại Khoa Sản thường, Bệnh viện Phụ Sản Trung ương 2022-2023. Tạp chí Y học cộng đồng, 2023, 64 (3), tr. 118-124. doi:10.52163/yhc.v64i3.651
[4] Vũ Thị Nhung. Lợi ích và nguy cơ mổ lấy thai. Tạp chí Thời sự y học, 8/2014, tr. 23-25.
[5] Lê Thị Thúy. Thực trạng trầm cảm sau sinh và một số yếu tố liên quan ở bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi đang điều trị tại Bệnh viện Nhi Nam Định. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 2018, 01, tr. 60-65.
[6] Abdulrahman M, Abdullah S.S, Alaani A.F.K et al. Exploring Obstetrical Interventions and Stratified Cesarean Section Rates Using the Robson Classification in Tertiary Care Hospitals in the United Arab Emirates. Rev Bras Ginecol E Obstet Rev Fed Bras Soc Ginecol E Obstet, 2019, 41 (3), p. 147-154. doi: 10.1055/s-0038-1676524
[7] Takegata M, Ronsmans C, Nguyen H.A.T et al. Socio-demographic factors of cesarean births in Nha Trang city, Vietnam: a community-based survey. Trop Med Health, 2020, 48: 57. doi: 10.1186/s41182-020-00239-2
[8] Mostafayi M, Imani B, Zandi S, Jongi F. The effect of familiarization with preoperative care on anxiety and vital signs in the patient’s cesarean section: A randomized controlled trial. Eur J Midwifery, 2021 Jun 25, 5: 21. doi: 10.18332/ejm/137366.
[9] Maskey S, Bajracharya M, Bhandari S. Prevalence of Cesarean Section and Its Indications in a Tertiary Care Hospital. JNMA J Nepal Med Assoc, 2019 Mar-Apr, 57 (216): 70-73. doi: 10.31729/jnma.4282.
[10] Maeda E, Ishihara O, Tomio J et al. Cesarean section rates and local resources for perinatal care in Japan: A nationwide ecological study using the national database of health insurance claims. J Obstet Gynaecol Res, 2018 Feb, 44 (2): 208-216. doi: 10.1111/jog.13518.