27. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THIỂU ỐI Ở THAI PHỤ TUỔI THAI TỪ 28 ĐẾN 40 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÀNH PHỐ NGÃ BẢY
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị thiểu ối ở thai phụ từ 28 đến 40 tuần tại Khoa Sản – Bệnh viện thành phố Ngã Bảy trong giai đoạn 2022–2024.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu được thực hiện trên 95 thai phụ đơn thai có chỉ số nước ối (AFI) ≤ 5 cm, điều trị nội trú từ tháng 12/2022 đến tháng 6/2024. Dữ liệu được thu thập từ hồ sơ bệnh án, bao gồm đặc điểm lâm sàng, siêu âm, xử trí và kết quả sơ sinh.
Kết quả: Phần lớn thai phụ được chẩn đoán thiểu ối ở tuổi thai ≥ 37 tuần (73,7%), ngôi đầu chiếm ưu thế (97,9%), chỉ số AFI trung bình là 4,12 ± 0,87 cm. Mổ lấy thai chủ động là phương pháp xử trí chính (74,7%), trong khi 18,9% được điều trị nội khoa. Trong nhóm điều trị bảo tồn, 75% cải thiện chỉ số nước ối, 25% chuyển dạ tự nhiên. Các chỉ định mổ chủ yếu liên quan đến yếu tố sản khoa như sẹo mổ cũ (31%) và tiền sản giật (16,9%). 100% trẻ sơ sinh có Apgar phút 1 ≥ 7; tỷ lệ nhẹ cân (< 2500g) thấp (7,8%) và không ghi nhận tử vong chu sinh.
Kết luận: Thiểu ối ở tuổi thai 28–40 tuần, nếu được phát hiện và theo dõi kịp thời bằng siêu âm, có thể được xử trí hiệu quả. Điều trị bảo tồn vẫn có vai trò trong các trường hợp nhẹ, giúp giảm tỷ lệ can thiệp không cần thiết. Kết quả sơ sinh nhìn chung khả quan, cho thấy hiệu quả của việc theo dõi và cá thể hóa điều trị phù hợp.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Thiểu ối, AFI, điều trị bảo tồn, kết cục thai kỳ.
Tài liệu tham khảo
[2] Sandhyasri P, et al (2017), “Oligoamnios and perinatal outcome”, The Journal of Obstetrics and Gynecology of India, 67(2), pp.104-108.
[3] Phạm Thị Thu Hồng (2018), “Tình hình, mức độ thiểu ối và một số yếu tố liên quan ở sản phụ mang thai đủ tháng tại Bệnh viện sản nhi tình An Giang”, Tạp chí Y dược học Cần Thơ, sô 16.
[4] Nguyễn Thị Kim Đương (2017), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị ở các thai phụ thiểu ối tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ năm 2016 – 2017, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y dược Cần Thơ.
[5] Cấn Bá Quát, Hoàng Thị Ngọc Trâm và cộng sự (2023), “Nghiên cứu xử trí thiểu ối ở tuổi thai đủ tháng tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 527, số 1B, tr. 197 – 200.
[6] Phạm Thái Tú Châu (2014), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị thai phụ thiểu ối nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Thành phố Cần Thơ 2013-2014, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại học Y dược Cần Thơ.
[7] Đặng Khánh Ly (2015), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả xử trí ở thai phụ mang thai thiểu ối, Luận văn Bác sĩ Nội trú, Trường Đại học Y dược Huế.
[8] Chu Tiểu Yến, Phạm Mỹ Hoài và cộng sự (2023), “Kết cục thai kỳ của các thai phụ thiểu ối non tháng tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 531, số 1B, tr. 242 – 246.
[9] Singhal S.R., Gupta R., et al (2015), “Low Amnioitic Fluid Index as a predictor of adverse perinatal outcomes an India perspective”, Clinics in Mother and Child Health, 12(4).