9. TỶ LỆ HUYẾT THANH DƯƠNG TÍNH VỚI GIUN LƯƠN (Strongyloides stercoralis) VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN, NĂM 2022
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Bệnh giun lươn do Strongyloides stercoralis (S. stercoralis) gây bệnh cho hơn 600 triệu người trên thế giới, đường lây chủ yếu qua da và niêm mạc. Người bị nhiễm bệnh thường không có triệu chứng điển hình, có thể gây ngứa, sốt, nổi mề đay, đau bụng, tiêu chảy, khó tiêu, đau dạ dày, sụt cân, trường hợp nhiễm nặng có thể đe dọa đến tính mạng ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, tỷ lệ tử vong lên đến 85%.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính với S. stercoralis bằng kỹ thuật ELISA và tìm hiểu một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đến khám tại Phòng khám ký sinh trùng, bệnh viện Trường Đại học Tây Nguyên, năm 2022.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả bệnh nhân từ 3 tuổi trở lên đến khám bệnh ký sinh trùng tại bệnh viện Trường Đại học Tây Nguyên. Thiết kế nghiên cứu cắt ngang.
Kết quả: Tỷ lệ huyết thanh dương tính S. stercoralis là 32,0% (CI 95% = 26,3% - 38,1%). Nhóm người dưới 18 tuổi, trình độ học vấn dưới tiểu học, nghề nông, thường xuyên đi chân đất, thường xuyên tiếp xúc đất, không sử dụng bảo hộ lao động (BHLĐ) khi canh tác, triệu chứng ngứa, nổi mề đay có khả năng nhiễm cao hơn.
Kết luận: Có mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm S. stercoralis với nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, đi chân đất, tiếp xúc với đất, sử dụng BHLĐ,…
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Giun lươn, Strongyloides stercoralis, huyết thanh dương tính, bệnh viện Trường Đại học Tây Nguyên
Tài liệu tham khảo
[2]. Huỳnh Tôn Kiều Oanh, Nguyễn Văn Chương, Thân Trọng Quang và cộng sự (2016), Tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun lươn Strongyloides stercoralis và một số yếu tố liên quan của người dân xã Mỹ Quang, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, năm 2015, Kỷ yếu hội nghị ký sinh trùng học toàn quốc lần thứ 43, Đắk Lắk.
[3]. Lê Đức Vinh (2019), Nghiên cứu thực trạng, một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun lươn Strongyloides spp. và kết quả điều trị bằng ivermectin tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, năm 2017 - 2018, Luận án Tiến sĩ Y học, Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Hà Nội.
[4]. Lê Đức Vinh, Nguyễn Kim Thạch, Trần Trinh Vương và cộng sự (2022). Tỷ lệ nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis và một số yếu tố liên quan ở người dân xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh năm 2022. Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 130(4), tr. 23–31.
[5]. Phạm Minh Triết (2020), Tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun lươn Strongyloides stercoralis ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tại huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Y sinh, ĐH Tây Nguyên, Đắk Lắk.
[6]. Trịnh Xuân Cường (2023), Tỷ lệ huyết thanh dương tính với giun lươn và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân đến khám tại phòng khám ký sinh trùng, Bệnh viện Đại học Y dược Hoàng Anh Gia Lai, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Y sinh, ĐH Tây Nguyên, Đắk Lắk.
[7]. Vũ Thị Lâm Bình (2014). Thực trạng nhiễm giun lươn đường ruột tại xã Dương Thành, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và xã Cáo Điền, huyên Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, (3), tr. 10–14.
[8]. Aung M.P.P.T.H.H., Hino A., Oo K.M. (2018). Prevalence and associated risk factors of Strongyloides stercoralis infection in Lower Myanmar. Trop Med Health, 46, pp. 43–48.
[9]. Buonfrate D., Bisanzio D., Giorli G. et al. (2020). The Global Prevalence of Strongyloides stercoralis Infection. Pathogens, 9(6), pp. 468–476.
[10]. Chan A.H.E., Kusolsuk T., Watthanakulpanich D. et al. (2023). Prevalence of Strongyloides in Southeast Asia: a systematic review and meta-analysis with implications for public health and sustainable control strategies. Infect Dis Poverty, 12(1), pp. 83–98.
[11]. De N.V., Minh P.N., Duyet L.V. et al. (2019). Strongyloidiasis in northern Vietnam: epidemiology, clinical characteristics and molecular diagnosis of the causal agent. Parasit Vectors, 12(1), pp. 515–526.
[12]. Forrer A., Khieu V., Vounatsou P. et al. (2019). Strongyloides stercoralis: Spatial distribution of a highly prevalent and ubiquitous soil-transmitted helminth in Cambodia. PLoS Negl Trop Dis, 13(6), e0006943.
[13]. Gordon C.A., Utzinger J., Muhi S. et al. (2024). Strongyloidiasis. Nat Rev Dis Primers, 10(1), pp. 1–16.
[14]. Kridaningsih T.N., Sukmana D.J., Mufidah H. et al. (2020). Epidemiology and risk factors of Strongyloides stercoralis infection in Papua, Indonesia: a molecular diagnostic study. Acta Trop, 209, 105575.
[15]. Senephansiri P., Laummaunwai P., Laymanivong S. et al. (2017). Status and Risk Factors of Strongyloides stercoralis Infection in Rural Communities of Xayaburi Province, Lao PDR. Korean J Parasitol, 55(5), pp. 569–573.