ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA SONG THAI MẮC HỘI CHỨNG TRUYỀN MÁU ĐƯỢC PHẪU THUẬT TRƯỚC SINH TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Main Article Content
Abstract
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của song thai mắc hội chứng truyền máu được phẫu thuật trước sinh tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu trên 119 thai phụ được phẫu thuật trước sinh điều trị hội chứng truyền máu song thai tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ tháng 9/2019 đến tháng 9/2024.
Kết quả: Tuổi mẹ trung bình là 28,81 ± 4,86 tuổi, tuổi thai trung bình tại thời điểm phẫu thuật là 20,55 ± 2,57 tuần. 87,4% trường hợp mang thai tự nhiên. Chiều dài cổ tử cung trung bình trước phẫu thuật là 37,08 ± 6,16 mm. Đa số bánh rau bám mặt sau tử cung (60,5%), hơn một nửa trường hợp có thai chậm phát triển chọn lọc trong buồng tử cung (52,1%). Dây rốn bám mép hoặc bám màng chiếm 17,23%. Góc ối sâu nhất trung bình của thai nhận là 94,56 ± 19,07 mm, của thai cho là 12,28 ± 4,50 mm. Bất thường Doppler gặp ở 23,5% thai nhận và 1,7% thai cho. Hầu hết các trường hợp được phẫu thuật ở giai đoạn II theo phân loại Quintero (69,7%), giai đoạn III chiếm 23,5% và giai đoạn IV chiếm 6,8%.
Kết luận: Đặc điểm trên siêu âm phản ánh đúng tình trạng thai trong hội chứng truyền máu song thai. Việc sàng lọc và chẩn đoán sớm hội chứng truyền máu song thai đóng vai trò quan trọng trong việc tiên lượng và cải thiện kết cục thai kỳ. Cần tăng cường công tác quản lý, theo dõi song thai một bánh rau hai buồng ối tại các cơ sở có kinh nghiệm để phát hiện và can thiệp kịp thời, giảm biến chứng và tỷ lệ tử vong sơ sinh.
Article Details
Keywords
Hội chứng truyền máu song thai, phẫu thuật laser quang đông, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng.
References
[2] Akkermans J, Peeters S.H.P, Klumper F.J et al. Twenty-five years of fetoscopic laser coagulation in twin-twin transfusion syndrome: A Systematic review. Fetal Diagnosis and Therapy, 2015, 38 (4), 241-253.
[3] Bojnordi T.E, Eslamian L, Marsoosi V et al. Doppler finding, cardiovascular function assessment, and fetuses’ survival following the fetoscopic laser in twin-to-twin transfusion syndrome. J Lasers Med Sci, 2023, 14, e64.
[4] Kweon S.Y, Lee S.M, Cho K et al. Fetal survival immediate after fetoscopic laser ablation in twin to twin transfusion syndrome. J Korean Med Sci, 2019, 34 (3), e20.
[5] Chiu L.C, Chang Y.L, Chao A.S et al. Effect of gestational age at fetoscopic laser photocoagulation on perinatal outcomes for patients with twin-twin transfusion syndrome. J Clin Med, 2023, 12 (5), 1900.
[6] Anh N.D, Hung H.S, Sim N.T et al. Fetoscopic laser ablation for the selective fetal reduction in twin-twin transfusion syndrome stage II-IV: The experience of a new fetal medicine center. Int J Womens Health, 2022, 14, 555-563.
[7] Groene S.G, Tollenaar L.S.A, van Klink J.M.M et al. Twin-twin transfusion syndrome with and without selective fetal growth restriction prior to fetoscopic laser surgery: Short and long-term outcome. J Clin Med, 2019, 8 (7), 969.
[8] Dat D.T, Thuong P.T.H, Ha N.T.T et al. Prognostic factors of preterm birth after selective laser umbilical cord coagulation for twin-twin transfusion syndrome at Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital. Med Arch, 2024, 78 (3), 215-219.
[9] Townsend R, Khalil A. Ultrasound surveillance in twin pregnancy: An update for practitioners. Ultrasound, 2018, 26 (4), 193-205.
[10] Vũ Văn Vinh. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả thai kỳ của song thai một bánh rau hai buồng ối mắc hội chứng truyền máu tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội năm 2019-2020. Luận văn bác sĩ chuyên khoa II, Trường Đại học Y Hà Nội, 2021.
[11] Ling D, Phelps A, Tate T et al. Perinatal and neonatal outcomes for fetoscopic laser ablation for the treatment of twin twin transfusion syndrome at a single center. J Perinatol, 2023, 43 (2), 147-154.
[12] Fichera A, Azzaretto V.V, Fratelli N et al. Fetoscopic laser ablation therapy in monochorionic diamniotic twin pregnancies with twin-to-twin transfusion syndrome treated at a single centre over 10 years: a retrospective study. Journal of Perinatal Medicine, 2022, 50 (1), 34-41.