50. THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI VỀ TÌNH DỤC AN TOÀN CỦA SINH VIÊN Y KHOA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Ngo Thi Ngan, Nguyen Thi Uyen, Dinh Van Thang

Main Article Content

Abstract

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và hành vi tình dục an toàn của sinh viên Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên năm 2024.


Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 331 sinh viên chính quy ngành y khoa khóa 55 tại Trường Đại học Y Dươc Thái Nguyên từ tháng 4/2024 đến tháng 4/2025. Đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi của sinh viên bằng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. Sử dụng chỉ số p-value để xác định mối liên quan giữa các đặc điểm chung của đối tượng với kiến thức, thái độ, hành vi và mối liên quan giữa kiến thức, thái độ với hành vi về tình dục an toàn của sinh viên.

Kết quả: Có 69,2% sinh viên hiểu đúng “tình dục an toàn là quan hệ tình dục mà không mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục và không mang thai ngoài ý muốn” (hiểu không đúng 23,9%, không biết 6,9%). Tỷ lệ sinh viên có kiến thức tốt về tình dục an toàn là 52%. Tỷ lệ sinh viên có thái độ tốt về tình dục an toàn là 62,5%. Trong 99 sinh viên đã từng quan hệ tình dục, tỷ lệ sinh viên có hành vi về tình dục an toàn tốt là 66,7% và có sự đồng đều giữa hai giới. Đáng chú ý, còn tồn tại 33,3% sinh viên có hành vi chưa tốt về tình dục an toàn. Một số yếu tố liên quan độc lập (p < 0,05) đến kiến thức bao gồm: giới, dân tộc, nơi ở, tình trạng người yêu. Một số yếu tố liên quan độc lập (p < 0,05) đến thái độ bao gồm: kiến thức, dân tộc và tình trạng người yêu. Kiến thức và thái độ có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với hành vi về tình dục an toàn (p < 0,05).


Kết luận: Nâng cao kiến thức về tình dục an toàn là yếu tố cốt lõi giúp điều chỉnh thái độ và cải thiện hành vi ở sinh viên. Kiến thức đúng góp phần tăng ý thức tự bảo vệ và giảm nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. Ngoài ra, những yếu tố như giới tính, dân tộc và trải nghiệm yêu đương ảnh hưởng rõ đến nhận thức và cách ứng xử. Chính vì thế, việc giáo dục giới tính không còn là lựa chọn mà là một yêu cầu cấp thiết để bảo vệ sức khỏe và phát triển toàn diện cho cộng đồng, đặc biệt trong bối cảnh xã hội hiện nay.

Article Details

References

[1] Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Tổng cục Thống kê. Điều tra Quốc gia vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2 (SAVY2), 4/2009. Hà Nội, 2010.
[2] Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình. Niên giám thống kê tóm tắt dân số - kế hoạch hóa gia đình, Hà Nội, 2013.
[3] Mai Thúy Mai và cộng sự. Nghiên cứu kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan về sức khỏe sinh sản của sinh viên Học viện Y., năm 2017. Tạp chí Y học Quân sự, 2021, số 350, tr. 48-52.
[4] Fana T.E, Ijeoma E, Sotana L. Knowledge, Attitudes, and Prevention Practices of DrugResistant Tuberculosis in the Eastern Cape Province, South Africa. Tuberculosis Research and Treatment, 2019, 38 (38), p. 1-12.
[5] Nguyễn Thị Mai, Phạm Văn Tình. Kiến thức, thái độ và hành vi về tình dục an toàn của sinh viên tại một số trường đại học ở Hà Nội. Tạp chí Y học thực hành, 2022, 101 (3), tr. 45-52.
[6] Phạm Thị Lan Anh và cộng sự. (2020). Nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi tình dục của sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ y tế công cộng. Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, 2020.
[7] Zhou Y, Zhang L, Fan J, Wu Y, Wang Y. Sexual behavior and awareness of sexually transmitted infections among Chinese college students: a cross-sectional study. BMC Public Health, 2021, 21, Article 2074, 1-9.