35. THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ PHÒNG BIẾN CHỨNG CỦA NGƯỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC THÁI NGUYÊN
Main Article Content
Abstract
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức và phân tích một số yếu tố liên quan đến phòng biến chứng của người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 377 người bệnh được chẩn đoán và quản lý tăng huyết áp tháng 12/2024 đến tháng 6/2025 tại phòng khám tăng huyết áp, khoa Khám bệnh, Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Thái Nguyên.
Kết quả: Trong nghiên cứu, tỷ lệ người bệnh có kiến thức đạt yêu cầu về phòng ngừa biến chứng tăng huyết áp là 74,5%. Nam giới có kiến thức đạt cao hơn nữ giới (80,5% so với 66,7%), OR=2,06; p=0,003. Người bệnh có trình độ cao đẳng/đại học trở lên có kiến thức tốt hơn so với nhóm học vấn thấp (83,2% so với 69,2%), OR=2,20; p=0,003. Người không hút thuốc có kiến thức đạt cao hơn nhóm hút hoặc đã từng hút (OR=1,63; p=0,043). Người có tiền sử uống rượu bia có khả năng đạt kiến thức cao hơn nhóm không uống (OR=1,99; p=0,004). Người bệnh biết về biến chứng THA có khả năng đạt kiến thức cao hơn nhóm không biết (OR=1,82; p=0,026).
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy 74,5% người bệnh tăng huyết áp có kiến thức đạt về phòng biến chứng. Kiến thức liên quan chặt chẽ với giới tính, trình độ học vấn, hút thuốc, uống rượu bia và hiểu biết về biến chứng. Cần tăng cường truyền thông – giáo dục sức khỏe phù hợp với từng nhóm đối tượng, chú trọng nữ giới và người học vấn thấp, kết hợp tư vấn cá thể hóa trong các lần tái khám để nâng cao kiến thức và phòng biến chứng hiệu quả
Article Details
Keywords
biến chứng, dự phòng, tăng huyết áp, kiến thức
References
[2] World Health Organization (2023), "Global report on hypertension: the race against a silent killer," World Health Organization, Geneva2023.
[3] Gregory A Roth et.al (2020), "Global burden of cardiovascular diseases and risk factors, 1990–2019: update from the GBD 2019 study," Journal of the American college of cardiology, vol. 76, no. 25, pp. 2982-3021.
[4] Bộ Y tế (2022), "Báo cáo thường niên ngành y tế 2022," Hà Nội2022.
[5] Tạ Quang Thành, Nguyễn Văn Chuyên (2025), "Thực trạng mắc và một số yếu tố liên quan bệnh tăng huyết áp ở người cao tuổi tại Hà Nội năm 2022," Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 552, no. 1.
[6] Nguyễn Thị Quỳnh và cộng sự (2024), "Kiến thức và thực hành về dự phòng biến chứng của người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại tại bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn năm 2023," Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 540, no. 1.
[7] Rajeev Gupta,Denis Xavier (2018), "Hypertension: The most important non communicable disease risk factor in India," Indian heart journal, vol. 70, no. 4, pp. 565-572.
[8] World Health Organization (2021), Guideline for the pharmacological treatment of hypertension in adults. World Health Organization.
[9] Zhuo-Ran Li et.al (2021), "Gender difference in the association between stroke knowledge and health behavior before the onset of stroke among Chinese hypertensive patients," Journal of Neuroscience Nursing, vol. 53, no. 4, pp. 160-165.