2. KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN THOÁI HOÁ KHỚP GỐI NGUYÊN PHÁT TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN NĂM 2020 - 2024

Do Thuy Dung, Tran Do Thanh Phong

Main Article Content

Abstract

Mục tiêu: (1) Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát tại Bệnh viện Đại học Võ Trường Toản (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mức độ thoái hóa ở bệnh nhân thoái hoá khớp gối nguyên phát.


Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu hồ sơ bệnh án trên 1050 bệnh nhân thoái hoá khớp gối nguyên phát từ năm 2020 đến năm 2025 tại Bệnh viện Đại học Võ Trường Toản bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn


Kết quả: Trong tổng số 1.050 bệnh nhân thoái hóa khớp gối, nữ giới chiếm đa số (72,1%), tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi 50–69 (60,7%). Về nghề nghiệp, tỷ lệ cao nhất là nhóm không còn lao động hoặc nội trợ (44,8%), tiếp theo là lao động chân tay (36,2%). Tỷ lệ thoái hóa gối phải (40,1%) và trái (37%) gần tương đương, thoái hóa hai bên gối chiếm 22,9%. Trên X-quang, dấu hiệu hẹp khe khớp phổ biến nhất (48,8%), kế đến là loãng xương (40,2%) và đặc xương dưới sụn (31,2%); gai xương lớn gặp ở 14,3% bệnh nhân. Siêu âm cho thấy 37,7% có ít dịch khớp và 35,6% có tràn dịch khớp. Về phân độ thoái hóa, đa số thuộc Độ I (48,3%) và II (48,7%), trong khi Độ III và IV chỉ chiếm lần lượt 2,5% và 0,5%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ (p = 0,74), nhưng tuổi và nghề nghiệp liên quan rõ rệt đến mức độ thoái hóa (p < 0,05); trong đó, tỷ lệ thoái hóa nặng tăng theo tuổi, đặc biệt ở nhóm ≥ 60 tuổi, và cao nhất ở nhóm lao động chân tay (5,3%), trong khi nhóm hưu trí/nội trợ chủ yếu ở Độ II (55,5%)


Kết luận: Thoái hóa khớp gối nguyên phát chủ yếu gặp ở nữ giới, độ tuổi trung niên trở lên, với biểu hiện lâm sàng điển hình là đau khớp và hạn chế vận động. Trên hình ảnh X-quang, hẹp khe khớp và loãng xương là các dấu hiệu thường gặp; đa số bệnh nhân được chẩn đoán ở mức độ I và II theo thang điểm Kellgren – Lawrence. Mức độ thoái hóa có liên quan đáng kể đến người lớn tuổi và nhóm lao động chân tay.

Article Details

References

[1] Loeser RF, Goldring SR, Scanzello CR, Goldring MB (2012) Osteoarthritis: A disease of the joint as an organ. Arthritis Rheum, 64(6):1697–1707.
[2] Hunter DJ, Bierma-Zeinstra S. (2019) Osteoarthritis. Lancet, 393(10182):1745–1759.
[3] Yang G, Wang J, Liu Y, et al. Burden of Knee Osteoarthritis in 204 Countries and Territories, 1990–2019: Results From the Global Burden of Disease Study 2019. Arthritis Care Res (Hoboken). 2023;75(12):2489–2500. doi:10.1002/acr.25158
[4] Ho‑Pham LT, Lai TQ, Mai LD, Doan MC, Pham HN, Nguyen TV. Prevalence of Radiographic Osteoarthritis of the Knee and Its Relationship to Self‑Reported Pain. PLoS ONE. 2014;9(4):e94563. doi:10.1371/journal.pone.0094563
[5] Altman R, Asch E, Bloch D, et al. (1991) Development of criteria for the classification and reporting of osteoarthritis: classification of osteoarthritis of the knee. Arthritis Rheum;34(4):505–514.
[6] Kellgren, J. H., & Lawrence, J. S. (1957). Radiological assessment of osteo‑arthrosis. Annals of the Rheumatic Diseases, 16(4), 494–502.
[7] Trần Thái Hà, Bùi Trí Thuật (2022), “Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân thoái hoá khớp gối tại Bệnh viện Đa khoa Mê Linh”, Tạp chí Y học Việt Nam, 514, số 2, 280-284.
[8] Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Thùy Linh (2024). Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân thoái hoá khớp gối có tràn dịch tại Bệnh viện Tuệ Tĩnh. Tạp Chí Y học Việt Nam, 545(1).
[9] Hồ Nhật Minh (2019), “Đánh giá tác dụng của bài Ý dĩ nhân thang kết hợp Tứ diệu tán trong điều trị thoái hóa khớp gối có tràn dịch”, Luận văn bác sĩ nội trú, Đại học Y Hà Nội.