16. ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN NHIỄM GIUN LƯƠN STROGYLOIDES STERCORALIS TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ NĂM 2020 – 2021
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nhiễm giun lươn S. stercoralis là một trong những bệnh truyền nhiễm thường gặp ở các nước nhiệt đới với khí hậu nóng ẩm, tuy nhiên khá ít các nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay đánh giá về tình trạng nhiễm giun lươn tại cơ sở y tế.
Mục tiêu: (1) Đánh giá tỷ lệ nhiễm S. stercoralis tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế; (2) Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm S. stercoralis.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: (1) Bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện được chỉ định làm ELISA huyết thanh tìm kháng thể IgG kháng S. stercoralis, thu thập thông tin bệnh nhân từ hồ sơ xét nghiệm được lưu trữ; (2) Bệnh nhân dương tính ELISA huyết thanh tìm kháng thể kháng S. stercoralis và đang điều trị nội trú tại bệnh viện, thu thập thông tin bệnh nhân từ bệnh án lưu trữ. Kết quả: (1) 65/193 (33.7%) người có ELISA dương tính, chủ yếu đến từ Thừa Thiên Huế, thường gặp trong độ tuổi lao động, tỷ lệ nam và nữ mắc bệnh không khác biệt; (2) với 30 bệnh nhân, thường gặp ở người >60 tuổi, nam nhiều hơn nữ, biểu hiện lâm sàng thường gặp ở đường tiêu hoá, 76.7% có eosinophil tăng cao. Kết luận: Nhiễm giun lươn là bệnh thường gặp ở Việt Nam; triệu chứng lâm sàng đa dạng và không đặc hiệu, chủ yếu liên quan tới biểu hiện ở hệ tiêu hoá; cận lâm sàng nổi bật là tăng bạch cầu ái toan.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Strongyloides stercoralis, ELISA, tăng bạch cầu ái toan
Tài liệu tham khảo
[2]. Vũ Thị Lâm Bình và các cộng sự. (2014), Thực trạng nhiễm giun lươn đường ruột tại xã Dương Thành, huyện Phú Bình,tỉnh Thái Nguyên và xã Cáo Điền, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, Tạp chí PC bệnh sốt rét và các bệnh KST. 3, tr. 10-14.
[3]. Sơn , T. T., Phan , H. Đ., Lý , Q. T., & Nguyễn , T. Đ. (2022). Nghiên cứu tình hình nhiễm ký sinh trùng và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân đến khám và điều trị tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2022. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 55, 207-213.
[4]. Diep NTN, Thai PQ, Trang NNM, Jäger J, Fox A, Horby P, Phuong HVM, Anh DD, Mai LTQ,(2017) Strongyloides stercoralis seroprevalence in Vietnam.EpidemiolInfect.;
145(15):3214-3218.
[5]. Le Duc, Vinh & Nguyen, Thach & Trinh, Vương & Thảo, Huỳnh. (2023). Tỷ lệ nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis và một số yếu tố liên quan ở người dân xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh năm 2022. Tạp chí PC bệnh sốt rét và các bệnh KST. 130. 23-31.
[6]. Trần Thị Hồng và các cộng sự (2012), “Giá trị của phương pháp elisa trong chẩn đoán nhiễm giun lươn Strongyloides stercoralis”, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh , Tập 16, Phụ bản của Số 1, tr24-29
[7]. Ana Requena-Méndez, et al (2013), The Laboratory Diagnosis and Follow Up of Strongyloidiasis: A Systematic Review, PLOS Neglected Tropical Diseases, Volume 7(1), e2002.
[8]. Krolewiecki A, Nutman TB (2019) Strongyloidiasis: A neglected tropical disease. Infect Dis Clin North Am 33(1): 135-151
[9]. Requena-Méndez A, Chiodini P, Bisoffi Z, Buonfrate D, Gotuzzo E, Muñoz J. (2013) The laboratory diagnosis and follow up of strongyloidiasis: a systematic review. PLoS Negl Trop Dis.;7(1):e2002.
[10]. Buonfrate D, Sequi M, Mejia R, Cimino RO, Krolewiecki AJ, Albonico M, Degani M, Tais S, Angheben A, Requena-Mendez A, Muñoz J, Nutman TB, Bisoffi Z. (2015) Accuracy of five serologic tests for the follow up of Strongyloides stercoralis infection. PLoS Negl Trop Dis.;9(2):e0003491