15. ĐÁNH GIÁ TÍNH AN TOÀN CỦA VẮC XIN SỞI MVVAC DO POLYVAC SẢN XUẤT THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CẢNH GIÁC DƯỢC

Lê Thu Nga1, Nguyễn Thúy Hường1, Nguyễn Đăng Hiền1, Lê Thị Hòa1, Trần Minh Nguyệt1
1 Trung tâm Nghiên cứu, Sản xuất Vắc xin và Sinh phẩm Y tế, Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn của vắc xin sởi MVVAC do POLYVAC sản xuất thông qua hoạt
động cảnh giác dược. Biến cố bất lợi sau tiêm chủng là hiện tượng bất thường về sức khỏe bao gồm
các biểu hiện tại chỗ tiêm hoặc toàn thân xảy ra sau tiêm chủng, không nhất thiết do việc sử dụng vắc
xin, bao gồm phản ứng thông thường sau tiêm chủng và tai biến nặng sau tiêm chủng. Các biến cố
bất lợi thường xảy ra sau khi tiêm vắc xin sởi do POLYVAC sản xuất thường là các triệu chứng tại
chỗ như ngứa, đau, sưng hoặc đỏ hoặc vừa sưng vừa đỏ tại chỗ tiêm; triệu chứng toàn thân như sốt
dưới 39°C và các triệu chứng khác (khó chịu, mệt mỏi, chán ăn).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thu thập và phân tích các sự cố bất lợi sau tiêm chủng
được ghi nhận từ các lô vắc xin sởi MVVAC do POLYVAC sản xuất và được sử dụng trong công tác
tiêm chủng trong giai đoạn 2019-2021. Từ đó đánh giá tính an toàn của vắc xin này.
Kết quả: Vắc xin sởi MVVAC do POLYVAC sản xuất và được sử dụng trong giai đoạn 2019 – 2021
có tỷ lệ biến cố bất lợi xảy ra như sau: sốt ≤ 39 °C có tỷ lệ 0,004%; sưng, đỏ tại chỗ tiêm có tỷ lệ
0,014% và các triệu chứng khác có tỷ lệ 0,0016%.
Kết luận: Vắc xin sởi MVVAC do POLYVAC sản xuất và được sử dụng trong giai đoạn 2019 –
2021 đạt yêu cầu về tính an toàn sau tiêm.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Đặng Thị Thanh Huyền, Dương Thị Hồng, “Một
số đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh sởi
tại Việt Nam năm 2013-2014”, Tạp chí Y học dự
phòng, 2016, tập 26, số 4 (177), tr.98-106.
[2] Bộ Y tế, “Hướng dẫn quốc gia về cảnh giác
Dược”, 2021.
[3] Đoàn Huy Hậu, Đào Xuân Vinh, Đinh Hồng
Dương và CS, “Đánh giá tính an toàn và tính sinh
miễn dịch của vắc xin sởi MVVAC do POLYVAC
sản xuất từ chủng AIK-C trên người tình nguyện
(giai đoạn 1 và 3)”, Tạp chí Y học dự phòng,
2011, tập XXI, số 4, tr. 110-117.