27. KẾT QUẢ NONG THỰC QUẢN TRÊN TRẺ TEO THỰC QUẢN BẨM SINH ĐÃ PHẪU THUẬT TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2: BÁO CÁO LOẠT CA
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm và kết quả nong thực quản trên trẻ hẹp miệng nối sau mổ teo thực quản bẩm sinh tại bệnh viện Nhi Đồng 2 trong thời gian từ tháng 01/2022 – 12/2023 trong thời gian theo dõi 6 tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả loạt ca. Đối tượng nghiên cứu là trẻ teo thực quản được phẫu thuật và theo dõi ở bệnh viện Nhi Đồng 2, nhập viện trong khoảng thời gian từ 01/01/2022 đến 31/12/2023.
Kết quả: Có 46 bệnh nhân chẩn đoán teo thực quản, trong đó typ C nhiều nhất với 39 ca (84,8%). 89% trẻ teo thực quản có dị tật bẩm sinh đi kèm. 12 (26%) trường hợp có nong thực quản vì hẹp miệng nối. Thời điểm nong thực quản trung vị là 8 tháng tuổi (1,5 – 52,5 tháng). Số lần nong thực quản trung vị là 2 (1 - 3,5), ít nhất là 1 lần và nhiều nhất là 6 lần, trong đó có 7 ca phải nong nhiều lần với khoảng cách trung vị giữa 2 lần nong là 3,5 tháng (1 - 11 tháng). Phương pháp nong được dùng là bằng que Maloney (46,4%), bóng (39,3%), 25% kết hợp cả 2 phương pháp và 8% dùng ống Tucker. Tỷ lệ thành công sau lần đầu nong là 42%, sau 2 -4 lần nong là 25%, sau 6 lần nong là 8%; 25% thất bại, Các biến chứng khác bao gồm tràn khí tràn dịch màng phổi (39,1%) viêm phổi tái phát (19,6%), khò khè kéo dài (17,4%) và dò khí thực quản tái phát (6,5%). Không có biến chứng gây tử vong.
Kết luận: Teo thực quản bẩm sinh thường đi kèm với các dị tật khác. Nong thực quản bằng bóng, Maloney là phương pháp có hiệu quả, an toàn, tuy nhiên tỷ lệ tái hẹp còn cao, cần chú ý điều trị các rối loạn kèm theo và biến chứng khác. Đồng thời, có thể cân nhắc các phương pháp khác như đặt stent thực quản.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
teo thực quản bẩm sinh, hẹp miệng nối, nong thực quản
Tài liệu tham khảo
[2] Khôi Nguyễn Minh, Tuân Tô Mạnh (2023). Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị teo thực quản bẩm sinh tại bệnh viện nhi trung ương. Tạp chí Y học Việt Nam, 529(2).
[3] Tâm Bùi Thị Thùy, Tuấn Nguyễn Anh. (2014). Đặc điểm các trường hợp teo thực quản bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 2007 - 2012. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 18(1): p. 381.
[4] Uyên Nguyễn Thị Bích, Quỳnh Huỳnh Kim. (2022). Kết quả điều trị hẹp thực quản bằng nong thực quản qua nội soi tại bệnh viện nhi đồng 1. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh,26(1): p. 106.
[5] Besendorfer, M., et al., (2021). Association of clinical factors with postoperative complications of esophageal atresia. Pediatr Neonatol, 62(1): p. 55-63.
[6] Krishnan, U., et al., (2016). ESPGHAN-NASPGHAN Guidelines for the Evaluation and Treatment of Gastrointestinal and Nutritional Complications in Children With Esophageal Atresia-Tracheoesophageal Fistula. J Pediatr Gastroenterol Nutr, 63(5): p. 550-570.
[7] Tambucci, R., et al., (2017).Anastomotic Strictures after Esophageal Atresia Repair: Incidence, Investigations, and Management, Including Treatment of Refractory and Recurrent Strictures. Front Pediatr, 5: p. 120.
[8] Cassina, M., et al., (2016). Prevalence, characteristics, and survival of children with esophageal atresia: A 32-year population-based study including 1,417,724 consecutive newborns. Birth Defects Res A Clin Mol Teratol, 106(7): p. 542-8.