59. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI BỆNH UNG THƯ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOATIỀN GIANG
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng quản lý chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả 128 người bệnh ung thư được chẩn đoán bất kỳ giai đoạn trên 18 tuổi đang điều trị nội trú, ngoại trú tại Khoa Ung Bướu, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang từ tháng 03/2025 đến 06/2025.
Kết quả: Trong 128 người tham gia, hơn 50% tự đánh giá chất lượng cuộc sống và sức khỏe ở mức thấp; 72% thường xuyên trải qua trạng thái tâm lý tiêu cực. Điểm CLCS trung bình là 2,75 (43,75/100), cao nhất ở lĩnh vực tâm lý (56,71) và thấp nhất ở thể chất (34,46). Người bệnh giai đoạn I–II có khả năng đạt CLCS ≥3 cao hơn gấp 4,17 lần so với giai đoạn III–IV (p < 0,001).
Kết luận: Cần có giải pháp phù hợp để Nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang giai đoạn 2025 – 2027.
Chi tiết bài viết
Tài liệu tham khảo
[1] Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang. (2023). Báo cáo công tác khám chữa bệnh.
[2] Nguyễn Thành Lam, Hà Mạnh Phương, Vi Trần Doanh và cộng sự (2019). Tình trạng đau và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư điều trị tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên từ tháng 1-6 năm 2019. Tạp chí Thần kinh học Việt Nam, (28).
[3] Nguyễn Thị Thanh Phương (2014). Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư giai đoạn IV trước và sau điều trị tại khoa chống đau Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội năm 2013. Luận văn, Trường Đại học Y tế Công Cộng.
[4] Nguyễn Hữu Bản, Lê Ngọc Tuyến, Đinh Tuấn Đức, & Trần Bình Thắng. (2022). Chất lượng cuộc sống ở người mang phục hình răng tại tỉnh Nam Định, Việt Nam, năm 2019–2021: Một nghiên cứu sử dụng bộ công cụ WHOQOL-BREF. Vietnam Medical Journal, N01, 112–120.
[5] Nguyễn Thị Hải Liên, Đặng Huy Quốc Thịnh, Lê Thị Kim Ánh, Lê Nguyễn Thùy Khanh, Lê Hoàng Linh, Võ Thị Thùy Trang, et al. (2023). Sự thay đổi chất lượng cuộc sống của người bệnh ung thư tại Bệnh viện Thành phố Thủ Đức sau can thiệp chăm sóc giảm nhẹ. Tạp chí Y học Việt Nam, 527, 364–367.
[6] Sung, H., Ferlay, J., Siegel, R. L., Laversanne, M., Soerjomataram, I., & Jemal, A. (2021). Global cancer statistics 2020: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA: A Cancer Journal for Clinicians, 71(3), 209–249.
[7] World Health Organization (WHO) (2020). Vietnamese WHOQOL-BREF. https://www.who.int/tools/whoqol/whoqol-bref/docs/defaultsource/publishing-policies/whoqol-bref/vietnamese-whoqol-bref
[8] Bouya, S., Balouchi, A., Rafiemanesh, H., Amirshahi, M., Dastres, M., Moghadam, M. P., & Behnamfar, N. (2018). Health‐related quality of life of Iranian breast cancer patients: A meta‐analysis and systematic review. Breast Cancer Research and Treatment, 170(2), 205–212.