2. ĐÁP ỨNG LÂM SÀNG VÀ DỊCH NÃO TỦY Ở BỆNH NHÂN LAO MÀNG NÃO TRONG THÁNG ĐẦU ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2017

Nguyễn Ngọc Trường Thi1, Nguyễn Thu Hà1
1 Bệnh viện Phổi Trung ương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Giới thiệu: Lao màng não vẫn là một bệnh khó chẩn đoán và điều trị với tỷ lệ tử vong khoảng 30% và thường để lại di chứng thần kinh nghiêm trọng. Đáp ứng điều trị ở những bệnh nhân lao màng não sau khi bắt đầu điều trị phác đồ thuốc lao vẫn chưa rõ ràng.


Mục tiêu: Đánh giá đáp ứng lâm sàng và dịch não tủy ở bệnh nhân lao màng não trong tháng đầu điều trị tại Bệnh viện Phổi Trung ương.


Đối tượng và phương pháp: Tiến hành một nghiên cứu quan sát để đánh giá đáp ứng trong vòng 30 ngày điều trị ở những bệnh nhân lao màng não. Tất cả bệnh nhân (n = 43) đều được điều trị bằng thuốc chống lao (Streptomycin, Rifampicin, Isoniazid, Pyrazinamide, Ethambutol) kết hợp với Corticoid. Bệnh nhân được theo dõi các triệu chứng lâm sàng và dịch não tủy.


Kết quả: Các triệu chứng cải thiện sớm sau 15 ngày là sốt (65,1% giảm còn 30,2%), nôn, buồn nôn (39,5% giảm còn 9,3%), rối loạn ý thức (62,8% giảm còn 44,2%), dấu hiệu màng não (97,7% giảm còn 74,4%). Các triệu chứng cải thiện sau 30 ngày là đau đầu (90,3% giảm còn 55,8%) và rối loạn cơ tròn (48,8% giảm còn 11,6%). Bạch cầu dịch não tủy trung bình giảm sau 30 ngày (496 ± 539 giảm còn 237 ± 273 tế bào/mm3), nhưng nồng độ protein và glucose dịch não tủy trung bình không thay đổi đáng kể sau 30 ngày.


Kết luận: Bệnh nhân lao màng não cần được theo dõi sát các triệu chứng lâm sàng trong tháng đầu tiên để đánh giá đáp ứng điều trị. Nên thực hiện lại chọc dịch não tủy sau 30 ngày điều trị để đánh giá đáp ứng điều trị dựa trên số lượng bạch cầu dịch não tủy thay vì nồng độ protein và glucose.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Thwaites G, Fisher M, Hemingway C et al. British Infection Society guidelines for the diagnosis and treatment of tuberculosis of the central nervous system in adults and children. J Infect, 2009, 59 (3), 167-187.
[2] al-Deeb S.M, Yaqub B.A, Sharif H.S et al. Neurotuberculosis: a review. Clin Neurol Neurosurg, 1992, 94 Suppl, S30-33.
[3] Christensen A.S.H, Andersen A.B, Thomsen V.O et al. Tuberculous meningitis in Denmark: a review of 50 cases. BMC Infectious Diseases, 2011, 11 (1), 1-6.
[4] Hosoglu S, Geyik M.F, Balik I et al. Predictors of outcome in patients with tuberculous meningitis. Int J Tuberc Lung Dis, 2002, 6 (1), 64-70.
[5] Nguyễn Thị Hà. Nhận xét bước đầu về kết quả phát hiện vi khuẩn lao của kỹ thuật PCR, MGIT, soi trực tiếp trong lao màng phổi, màng não. Tạp chí Y học thực hành, 2008, 7, tr. 3-4.
[6] Bộ Y tế. Quyết định số 162/QĐ-BYT, ngày 19 tháng 01 năm 2024 về việc ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và dự phòng bệnh lao”.
[7] Nguyễn Thị Hà. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của lao màng não ở người lớn theo giai đoạn bệnh. Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, 2009.
[8] Trần Thị Tuấn Anh. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng bệnh lao màng não người lớn. Trường Đại học Y Hà Nội, 2013.
[9] Schoeman J.F, Elshof J.W, Laubscher J.A et al. The effect of adjuvant steroid treatment on serial cerebrospinal fluid changes in tuberculous meningitis. Ann Trop Paediatr, 2001, 21 (4), 299-305.
[10] Patel V.B, Burger I, Connolly C. Temporal evolution of cerebrospinal fluid following initiation of treatment for tuberculous meningitis. S Afr Med J, 2008, 98 (8), 610-613.