18. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN LỰA CHỌN PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ U BUỒNG TRỨNG TRÊN PHỤ NỮ CÓ THAI TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá một số yếu tố liên quan đến việc lựa chọn điều trị u buồng trứng trên phụ nữ có thai bằng phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ năm 2019-2023.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang lấy mẫu hồi cứu trên 74 thai phụ có u buồng trứng được điều trị bằng phẫu thuật nội soi trong thai kỳ tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ ngày 1/1/2019 đến ngày 31/12/2023.
Kết quả: Nhóm tuổi phổ biến của thai phụ u bồng trứng được phẫu thuật nội soi trong thai kỳ là từ 20-35 tuổi (94,5%) với 74,3% trường hợp có ≤ 1 con. Hầu hết bệnh nhân vào viện vì đau tức bụng dưới và có 74,3% được phẫu thuật cấp cứu. Đặc điểm của bệnh nhân phẫu thuật cấp cứu gồm: 90% ở tuổi thai ≤ 12 tuần, 100% là u xoắn vỡ và 82,8% có O-RADS ≥ 3 (p < 0,05). Với phương thức phẫu thuật bóc khối u chủ yếu gồm: không đau bụng (94,7%), u không xoắn vỡ (100%) và O-RADS 1-2 (82,2%) với p < 0,05.
Kết luận: Chỉ định phẫu thuật cấp cứu đối với điều trị u bồng trứng ở phụ nữ có thai được đặt ra với các khối u có biến chứng (xoắn, vỡ) kể cả khi tuổi thai ≤ 12 tuần, chỉ số O-RADS ≥ 3 (p < 0,05). Phẫu thuật nội soi bóc u bồng trứng giúp bảo tồn buồng trứng, có thể áp dụng với các trường hợp không đau bụng, u bồng trứng không xoắn vỡ (p < 0,05).
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Phương pháp phẫu thuật u buồng trứng ở phụ nữ có thai, chỉ định phẫu thuật u buồng trứng ở phụ nữ có thai, u buồng trứng ở phụ nữ có thai
Tài liệu tham khảo
[2] Đinh Thế Mỹ, Tình hình khối u buồng trứng tại Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, Tạp chí Thông tin Y dược, 1998, tr. 50-54.
[3] Nguyễn Duy Ánh và cộng sự, Giáo trình Sản Phụ khoa dành cho sinh viên đại học, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016.
[4] Dương Thị Cương, Bài giảng Sản Phụ khoa, tập 1, Nhà Yuất bản Y học, Hà Nội, 2020.
[5] Đỗ Thị Ngọc Lan, Nghiên cứu áp dụng phẫu thuật nội soi cắt u nang buồng trứng lành tính tại Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, Hà Nội, 2003.
[6] Nguyễn Thị Hồng Phượng, Nghiên cứu điều trị phẫu thuật u buồng trứng ở phụ nữ có thai tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, Trường Đại học Y Hà Nội, 2020.
[7] Seifman B.D, Dunn R.L, Wolf J.S, Transperitoneal laparoscopy into the previously operated abdomen: effect on operative time, length of stay and complications, J Urol, 2003, 169 (1), pp. 36-40.
[8] Nguyễn Thị Hồng Nhung, Kết cục thai kỳ các trường hợp có phẫu thuật u buồng trứng trong thai kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ, 2020.
[9] Hoàng Thị Hiền, Tình hình phẫu thuật khối u buồng trứng ở phụ nữ có thai tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ năm 2001 đến 6/2006, Trường Đại học Y Hà Nội, 2006.
[10] Purnichescu V et al, Laparoscopic management of pelvic mass in pregnancy, Gynecol Obstet Biol Reprod (Paris), 2006, 35 (4), pp. 388-95.
[11] Katz V. L et al, Massive ovarian tumor complicating pregnancy, A case report, J Reprod Med, 1993, 38 (11), pp. 907-10.
[12] Andreotti, Rochelle F et al, O-RADS US risk stratification and management system: a consensus guideline from the ACR Ovarian-Adnexal Reporting and Data System Committee, J Radiology, 2020, 294 (1), pp. 168-185.
[13] Nguyễn Châu Trí, Nguyễn Hồng Hoa, Tỷ lệ bảo tồn buồng trứng trong phẫu thuật u buồng trứng xoắn và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Từ Dũ, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 2019, 23 (2), tr. 192-197.