14. ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SÀNG CỦA PHỤ NỮ CÓ THAI ĐƯỢC PHẪU THUẬT NỘI SOI U BUỒNG TRỨNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI

Đỗ Tuấn Đạt1,2, Mai Trọng Hưng1, Phan Thị Huyền Thương1,3, Nguyễn Kiều Oanh3, Trương Thị Hà Khuyên2
1 Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội
2 Trường Đại học Y Hà Nội
3 Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm cận lâm sàng phụ nữ có thai được phẫu thuật nội soi u buồng trứng tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội.


Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu mô tả cắt ngang trên 74 thai phụ chẩn đoán là u buồng trứng được can thiệp phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ 1/1/2019 đến 31/12/2023.


Kết quả: Tuổi trung bình của sản phụ chẩn đoán u buồng trứng trong nghiên là 27,1 ± 4,0, thường thấy ở các cán bộ công nhân viên. Bệnh nhân vào viện thường gặp nhất là đau vùng bụng dưới với 74,3%. Tuổi thai khi phát hiện gặp nhiều nhất ≤ 12 tuần tuổi với tỉ lệ nhiều nhất là 79,7% và có tới 67,6% thai phụ phải phẫu thuật khi thai ở lứa tuổi này. Hầu hết đối tượng nghiên cứu có u buồng trứng một bên (89,2%) theo chẩn đoán của nội soi. Tỉ lệ u buồng trứng có kích thước từ 10 cm trở xuống chiếm 56,8%, tỉ lệ u buồng trứng trên 10 cm chiếm 43,2%. Theo phân loại O-RADS chủ yếu là nhóm O-RADS2 chiếm 58,1%, sau đó là O-RADS3 với tỉ lệ bằng 35,1%. Hầu hết các trường hợp phát hiện xoắn khối u (70,3%) với tỉ lệ khối u xoắn 1 vòng, 2 vòng và 3 vòng lần lượt là 14,9%; 39,2% và 16,2%.


Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm tuổi 20-35 là nhóm gặp nhiều nhất. Trong những năm gần đây, phẫu thuật nội soi đã có những bước tiến đáng kể nhờ sự phát triển của trang thiết bị nội soi hiện đại và sự nâng cao kỹ năng của phẫu thuật viên. Những cải tiến này đã tạo điều kiện cho việc thực hiện phẫu thuật nội soi đối với các u buồng trứng kích thước lớn, thậm chí kèm theo có thai. Mặc dù phần lớn các u buồng trứng ở phụ nữ có thai trong nghiên cứu của chúng tôi có kích thước từ 10 cm trở xuống. Điều này cho thấy phẫu thuật nội soi có thể được áp dụng thành công đối với những trường hợp u buồng trứng lớn, nhưng cần chuẩn bị và tiến hành một cách cẩn thận, bảo đảm an toàn cho cả mẹ và thai nhi. Nhìn chung, với sự tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật nội soi và trang thiết bị hiện đại, khả năng phẫu thuật các u buồng trứng lớn hơn đã tăng lên, mở ra nhiều cơ hội điều trị cho những trường hợp phức tạp hơn.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Oehler M.K, Wain G.V, Brand A, Gynaecological malignancies in pregnancy: a review, Aust NZJ Obstet Gynaecol, Dec 2003, 43 (6): 414-20, doi: 10.1046/j.0004-8666.2003.00151.x.
[2] Horowitz N.S, Management of adnexal masses in pregnancy, Clin Obstet Gynecol, Dec 2011, 54 (4): 519-27, doi: 10.1097/GRF.0b013e318236c583.
[3] Đinh Thế Mỹ, Tình hình khối u buồng trứng tại Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, Tạp chí Thông tin Y dược, 1998, pp. 50-54.
[4] Aggarwal P, Kehoe S, Ovarian tumours in pregnancy: a literature review, Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, Apr 2011, 155 (2): 119-24, doi: 10.1016/j.ejogrb.2010.11.023.
[5] Đỗ Khắc Huỳnh, Đánh giá tình hình phẫu thuật nội soi đối với u nang buồng trứng tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội từ 1/1/1999 đến 31/5/2001, Hà Nội, 2001.
[6] Đỗ Thị Ngọc Lan, Nghiên cứu áp dụng phẫu thuật nội soi cắt u nang buồng trứng lành tính tại Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, Hà Nội, 2003.
[7] Nguyễn Thị Hồng Phượng, Nghiên cứu điều trị phẫu thuật u buồng trứng ở phụ nữ có thai tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, Trường Đại học Y Hà Nội, 2020.
[8] Nguyễn Thị Hồng Nhung, Kết cục thai kỳ các trường hợp có phẫu thuật u buồng trứng trong thai kỳ tại Bệnh viện Từ Dũ, 2020.
[9] Đỗ Kính, Chương 16: Hệ sinh dục nữ, Mô học, Bộ môn Mô học và Phôi thai học, Trường Đại học Y Hà Nội, Nhà Xuất bản Y học, 1999.
[10] Hoàng Thị Hiền, Tình hình phẫu thuật khối u buồng trứng ở phụ nữ có thai tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ năm 2001 đến tháng 6/2006, Trường Đại học Y Hà Nội, 2006.
[11] Phạm Thanh Nga, Xử lý u buồng trứng trong thai kỳ bằng phầu thuật nội soi tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ tháng 1/2005 đến tháng 6/2008, Trường Đại học Y Hà Nội, 2008.
[12] Phạm Đình Dũng, Nghiên cứu tình hình khối u buồng trứng trong quả trình thai nghén tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương từ 1996-2001, Trường Đại học Y Hà Nội, 2002.
[13] William H, Childers J.M, Canis M, Phillips D.R, Topel H, Laparoscopic management of benign cystic teratomas during pregnancy, Am J Obstet Gynecol, 1996, 174 (5): 1499-501, doi: 10.1016/s0002-9378(96)70595-1, PMID: 9065118.
[14] Mathevet P, Nessah K, Dargent D et al, Laparoscopic management of adnexal masses in pregnancy: a case series, European journal of obstetrics, gynecology, and reproductive biology, 2003, 108 (2): 217-22, doi: 10.1016/s0301-2115(02)00374-3.
[15] Seifman B.D, Dunn R.L, Wolf J.S, Transperitoneal laparoscopy into the previously operated abdomen: effect on operative time, length of stay and complications, The Journal of urology, 2003, 169 (1): 36-40, doi: 10.1016/s0022-5347(05)64029-3.
[16] Lý Thị Hồng Vân, Nghiên cứu về chẩn đoán và xử trí khối u buồng trứng xoắn tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương trong 5 năm (2004-2008), 2008.
[17] Phạm Diệu Linh, Nhận xét các khối u buồng trứng xoắn được điều thị tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương trong 2 năm (2013-2014), 2015
[18] Phan Trường Duyệt, Kỹ thuật hiện đại ứng dụng trong thăm dò phụ khoa, 2006.
[19] Nguyễn Châu Trí, Nguyễn Hồng Hoa, Tỷ lệ bảo tồn buồng trứng trong phẫu thuật u buồng trứng xoắn và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Từ Dũ, Nghiên cứu Y học - Y học thành phố Hồ Chí Minh, 2019, 23 (2), tr. 192-197.