7. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY HỞ THÂN XƯƠNG CHÀY SỬ DỤNG KHUNG CỐ ĐỊNH NGOÀI DẠNG KHỐI KẸP SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị sử dụng khung cố định ngoài dạng khối kẹp mới sản xuất trong nước với khớp cầu nắn chỉnh được, so sánh với khung cố định ngoài Muller.
Phương pháp: Nghiên cứu bao gồm 74 bệnh nhân (75 xương chày) gãy hở từ độ 1 đến độ 3B theo Gustolo-Anderson, trong đó 36 bệnh nhân được điều trị bằng khung cố định ngoài Muller (nhóm Muller) và 38 bệnh nhân (39 xương chày) được điều trị bằng khung cố định ngoài khối kẹp (nhóm khối kẹp). Đặc điểm nhân khẩu học, chấn thương, chi tiết phẫu thuật và kết quả lâm sàng được thu thập và phân tích.
Kết quả: Tuổi và giới tính, thời gian từ lúc chấn thương đến khi nhập viện và phẫu thuật, đường gãy, vị trí gãy và phân độ gãy hở tương đương nhau ở 2 nhóm. Gãy hở độ 3A chiếm nhiều nhất trong nhóm khối kẹp và độ 2 nhiều nhất trong nhóm Muller. Nhóm khối kẹp có thời gian đặt khung ngắn hơn nhưng thời gian phẫu thuật dài hơn. Tỷ lệ di lệch thứ phát và nhiễm trùng chân đinh tương đương giữa các nhóm, nhưng nhóm khối kẹp có ít trường hợp tháo khung do nhiễm trùng hơn. Tỷ lệ liền xương cao hơn ở nhóm khối kẹp, mặc dù thời gian liền xương tương tự nhau.
Kết luận: Khung cố định ngoài khối kẹp mới sản xuất trong nước bước đầu cho thấy giúp điều trị hiệu quả cho gãy hở xương chày hơn so với khung cố định ngoài Muller.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Cố định ngoài khối kẹp, cố định ngoài Muller, gãy hở xương chày, khớp cầu
Tài liệu tham khảo
[2] Dương Đình Toàn, Lê Xuân Tuấn, Đánh giá kết quả điều trị gãy hở hai xương cẳng chân có sử dụng khung cố định ngoài tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Tạp chí Y Học Việt Nam, 2022, 551 (2): 125-129.
[3] Court-Brown C.M, Bugler K.E, Clement N.D, Duckworth A.D, McQueen M.M, The epidemiology of open fractures in adults, a 15-year review, Injury, 2012, 43 (6): 891-897, doi: 10.1016/j.injury.2011.12.007.
[4] Vekris M.D, Lykissas M.G, Manoudis G et al, Proximal screws placement in intertrochanteric fractures treated with external fixation: comparison of two different techniques, J Orthop Surg Res., 2011, 6: 48, Published 2011 Sep 22, doi:10.1186/1749-799X-6-48.
[5] Varady P.A, Greinwald M, Augat P, Biomechanical comparison of a novel monocortical and two common bicortical external fixation systems regarding rigidity and dynamic stability, Biomed Tech (Berl), 2018, 63 (6): 665-672, doi:10.1515/bmt-2017-0051.
[6] Cao Thỉ, Phạm Quang Vinh, Cao Bá Hưởng và cộng sự, Đặc tính cơ học của khung cố định ngoài dạng khối cặp mới sản xuất dùng cố định gãy thân xương dài, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 2021, 25 (1): 86-93.
[7] De la Caffinière J.Y, Fauroux L, Haas J.L, La fracture séparation-enfoncement postérieure dans les fractures bimalléolaires [Posterior depression-separation fracture in bimalleolar fractures], Rev Chir Orthop Reparatrice Appar Mot., 1990, 76 (8): 568-578.
[8] Kamruzzaman M, Mahboob A.H, Saha M.K et al, Outcome of Ilizarov External Fixator for the Treatment of Gap Non-uniting Mid Shaft Tibia-fibula Fractures: Our Experience. Mymensingh Med J, 2020, 29 (2): 284-289.
[9] Cao Thỉ, Đánh giá hiệu quả ghép tủy xương vào ổ gãy hở xương chày, Tạp chí Y Dược lâm sàng 108, 2006, Số đặc biệt Hội nghị thường niên Hội Chấn thương chỉnh hình Việt Nam lần thứ năm, Hà Nội, tr. 214-216.
[10] Holbrook J.L, Swiontkowski M.F, Sanders R, Treatment of open fractures of the tibial shaft: Ender nailing versus external fixation, A randomized, prospective comparison, J Bone Joint Surg Am, 1989, 71 (8): 1231-1238.
[11] Bear N.E, Johnson W, Combined use of external skeletal fixation and internal screw fixation in tibial shaft fractures, Clin Orthop, 1955, 6: 141-148.
[12] De Bastiani G, Aldegheri R, Renzi Brivio L, Dynamic axial fixation, A rational alternative for the external fixation of fractures, Int Orthop, 1986, 10 (2): 95-99.
[13] Zachee B, Roosen P, Mc Aechern A.G, The dynamic axial fixator in fractures of the tibia and femur, A retrospective study in 98 patients, Acta Orthop Belg., 1991, 57 (3): 266-271.