6. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG NUÔI DƯỠNG SAU PHẪU THUẬT KÉO GIÃN XƯƠNG HÀM DƯỚI Ở TRẺ CÓ HỘI CHỨNG PIERRE ROBIN THỂ NẶNG
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá cải thiện tình trạng nuôi dưỡng trước và sau phẫu thuật kéo giãn xương hàm dưới (MDO) ở trẻ có hội chứng Pierre Robin (PRS) thể nặng.
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng, có đánh giá trước sau trên 102 Bệnh nhân mắc PRS thể nặng được phẫu thuật kéo dài xương hàm dưới hai bên, tại Khoa sọ mặt và tạo hình, Bệnh viện Nhi trung ương, từ 2019 - 2023
Kết quả: 35,3% trẻ có dấu hiệu Viêm; suy dinh dưỡng chiếm 55,9%. Có 100% bệnh nhân cần phải hỗ trợ nuôi dưỡng trước phẫu thuật kéo giãn xương; tại thời điểm kết thúc kích hoạt kéo giãn, 82,4% có thể nuôi dưỡng qua đường miệng, tất cả 100% bình thường sau 3 tháng. Cân nặng trung bình của trẻ tăng từ 2917,65 ± 592,62 gram lúc sinh lên 3496,14 ± 1008,43 gram tại thời điểm phẫu thuật. Sau khi tháo dụng cụ, cân nặng tiếp tục tăng đáng kể, đạt 4650,23 ± 1017,5 gram, tương ứng với mức tăng 159,4% so với lúc sinh; sau 9 tháng, cân nặng trung bình tăng lên 8450,3 ± 1147,1 gram, với mức tăng 289,68%, cho thấy thể trạng và tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt sau phẫu thuật tạo xương kéo giãn, đồng thời tăng trưởng cân nặng giống như trẻ bình thường.
Kết luận: Kéo giãn xương hàm dưới( MDO) là phương pháp an toàn, khả thi, hiệu quả, có tác dụng cải thiện các chỉ số thể chất, tình trạng nuôi dưỡng của trẻ PRS thể nặng.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Chuỗi Pierre Robin, dinh dưỡng, quá trình tạo xương kéo giãn xương hàm dưới
Tài liệu tham khảo
[2] Daniel M., Bailey S., Walker K. và cộng sự. (2013). Airway, feeding and growth in infants with Robin sequence and sleep apnoea. Int J Pediatr Otorhinolaryngol, 77(4), 499–503.
[3] Paes E.C., Vries I.A.C. de, Penris W.M. và cộng sự. (2017). Growth and prevalence of feeding difficulties in children with Robin sequence: a retrospective cohort study. Clinical Oral Investigations, 21(6), 2063.
[4] Tomáz F.M. de A.F., Borges A.H., Borba A.M. và cộng sự. (2017). Recovering Breathing and Feeding of a Newborn with Pierre Robin Sequence. Ann Maxillofac Surg, 7(1), 104–107.
[5] Lee J.J., Thottam P.J., Ford M.D. và cộng sự. (2015). Characteristics of sleep apnea in infants with Pierre-Robin sequence: Is there improvement with advancing age?. Int J Pediatr Otorhinolaryngol, 79(12), 2059–2067.
[6] Scott A.R., Tibesar R.J., Lander T.A. và cộng sự. (2011). Mandibular distraction osteogenesis in infants younger than 3 months. Arch Facial Plast Surg, 13(3), 173–179.
[7] Marston A.P., Lander T.A., Tibesar R.J. và cộng sự. (2012). Airway management for intubation in newborns with Pierre Robin sequence. Laryngoscope, 122(6), 1401–1404.
[8] Tahiri Y., Greathouse S.T., Tholpady S.S. và cộng sự. (2015). Mandibular Distraction Osteogenesis in Low-Weight Neonates with Robin Sequence: Is It Safe?. Plast Reconstr Surg, 136(5), 1037–1044.
[9] Hong P., Brake M.K., Cavanagh J.P. và cộng sự. (2012). Feeding and mandibular distraction osteogenesis in children with Pierre Robin sequence: a case series of functional outcomes. Int J Pediatr Otorhinolaryngol, 76(3), 414–418.