17. NHÂN NUÔI MẠT BỤI NHÀ DERMATOPHAGOIDES FARINAE TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định điều kiện tối ưu nhân nuôi mạt bụi nhà Dermatophagoides farinae trong phòng thí nghiệm. Phương pháp: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 7 đến tháng 12 năm 2024 tại Viện sốt rét Ký sinh trùng –Côn trùng Trung ương. Thủ nghiệm, đánh giá mật độ nuôi mạt khác nhau đến sự sinh trưởng và phát triển của mạt bụi nhà Dermatophagoides farinae. Thử nghiệm, đánh giá môi trường thức ăn nuôi mạt khác nhau đến sự sinh trưởng và phát triển của mạt bụi nhà Dermatophagoides farinae.
Kết quả: Trong 5 môi trường nuôi, môi trường nuôi số 5 (môi trường nuôi gồm có bột tôm khô, bột bánh mì, bột ngũ cốc theo tỉ lệ: 4:7:1 và bổ sung loài mạt Blomia tropicalis theo tỉ lệ 2 Dermatophagoides farinae:1 Blomia tropicalis) cho kết quả mạt bụi nhà phát triển tốt nhất. Số lượng mạt bụi nhà tăng lên 198,37 lần sau 8 tuần theo dõi và 585,5 lần sau 12 tuần theo dõi. Tiếp đến là môi trường nuôi số 1 (gồm có bột tôm khô, bột bánh mì, bột ngũ cốc theo tỉ lệ: 4:7:1) và môi trường 2 (gồm tôm khô khô, bột bánh mì, bột ngũ cốc, nấm men theo tỉ lệ: 4:7:1:2) cho kết quả tỷ lệ mạt bụi nhà tăng lên từ 93,47-96,23 lần sau 8 tuần và 237,03-259,35 lần sau 12 tuần theo dõi. Mật độ nuôi nuôi mạt bụi nhà phát triển tốt nhất ở mật độ 50con/đĩa nuôi với số ượng mạt tăng tương ứng sau 8 tuần là 198,37 lần và 200,83 lần ở loại đĩa nuôi 10g và sau 12 tuần là 585,50 lần và 529,52 lần ở loại đĩa nuôi 20g.
Kết luận: Điều kiện tối ưu mhân nuôi mạt bụi nhà Dermatophagoides farinae ở điều kiện nhiệt độ 25 – 280C, độ ẩm: 75 – 80 %, thời gian chiếu sáng: tối là 14:10 giờ với môi trường nuôi gồm có bột tôm khô, bột bánh mì, bột ngũ cốc theo tỉ lệ: 4:7:1 và bổ sung loài mạt Blomia tropicalis theo tỉ lệ 2:1 ở điều với mật độ nuôi mạt bụi nhà là 50 con/10g môi trường/đĩa nuôi.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Dermatophagoides farinae, nhân nuôi
Tài liệu tham khảo
[2]. Phạm Quang Chinh, Vũ Minh Thục, Đái Duy Ban (2002), “Kết quả điều tra 2 loài mạt bụi nhà gây dị ứng Glycyphagus domestic và Dermatophagoides pteronyssinus ở hà Nội và các vùng lân cận”, Báo cáo hội nghị Côn trùng toàn quốc (lần thứ 4), NXB Nông nghiệp, tr 94-99.
[3]. Miyamoto, J., A. Ishii and M. Sasa (1975), “A successful method for mass culture of the house dust mute, Dermatophagoides pteronyssinus (Trousart, 1897)”. Jpn. J. Exp. Med., 45: 133-138.
[4]. Vũ Minh Thục (1997), Một số đặc điểm dị nguyên mạt bụi nhà, Tạp chí Y học thực hành, N4, (19 – 21).
[5]. Colloff, M.J., (1985), The biology and control of the European house dust mite Dermatophagoides pteronyssinus (Trouessart, 1897) (Acari: Pyroglyphidae) in relation to atopic allergy. Ph.D. thesis, University of Glasgow, 104 pp. (unpublished).
[6]. Huỳnh Quang Thuận, Vũ Minh Thục, Võ Thanh Quang, Đinh Văn Minh (2009), “Nuôi cấy mạt bụi nhà Dermatophagoides pteronyssninus” Y học thực hành, Số 8, (39 – 41).