28. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA MỘT SỐ THÔNG SỐ THEO DÕI ĐỘ MÊ TRONG GÂY MÊ BẰNG DESFLURAN DƯỚI HƯỚNG DẪN CHỈ SỐ LƯỠNG PHỔ CHO PHẪU THUẬT GHÉP THẬN

Nguyễn Quang Trường1, Nguyễn Minh Lý1, Tống Xuân Hùng1, Nguyễn Trọng Cảnh1, Vũ Thị Vinh1, Nguyễn Thị Huyền1
1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá sự biến đổi của các chỉ số MAC, Et-Desfluran, Fi-Desfluran trong gây mê bằng Desfluran dưới hướng dẫn chỉ số lưỡng phổ cho phẫu thuật ghép thận từ người cho sống.


Đối tượng và phương pháp: 50 bệnh nhân có chỉ định ghép thận từ người cho sống dưới gây mê nội khí quản, hô hấp điều khiển, điều chỉnh nồng độ Desfluran theo chế độ Et-Control để đạt BIS trong giới hạn 40-60. Đánh giá sự biến đổi MAC, Fi-Desfluran, Et-Desfluran, tần số tim, huyết áp trung bình, CVP, SpO2 tại các thời điểm sau đặt nội khí quản 15 phút, rạch da, kẹp động mạch chậu, sau tái tưới máu 10 phút, đóng da và lượng thuốc mê tiêu thụ, thời gian thoát mê, thời gian rút nội khí quản.


Kết quả: Giá trị MAC, Fi-Desfluran, Et-Desfluran cao nhất tại thời điểm rạch da lần lượt là 0,67 ± 0,13; 5,3 ± 0,8%; 5,2 ± 0,9% và thấp nhất tại thời điểm sau tái tưới máu 10 phút, lần lượt là 0,44 ± 0,12; 3,1 ± 0,4%; 2,7 ± 0,5%, thể tích thuốc mê Desfluran trung bình là 13,1 ± 2,1 ml/giờ, thời gian thoát mê trung bình là 5,65 ± 2,4 phút, thời gian rút nội khí quản trung bình là 8,7 ± 2,6 phút.


Kết luận: Trong gây mê cho phẫu thuật ghép thận từ người cho sống, giá trị MAC, Fi-Desfluran, Et-Desfluran cao nhất tại thời điểm rạch da, thấp nhất tại thời điểm sau tái tưới máu 10 phút, thể tích thuốc mê Desfluran sử dụng trung bình là 13,1 ± 2,1 ml/giờ, thời gian thoát mê là 5,65 ± 2,4 phút, thời gian rút nội khí quản là 8,7 ± 2,6 phút.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Trương Hoàng Minh, Kết quả ghép thận ở bệnh nhân chạy thận nhân tạo chu kỳ và thẩm phân phúc mạc trước mổ ghép tại Bệnh viện nhân dân 115, Tạp chí Y học Việt Nam, 2023, 520(2), 36-39.
[2] Phạm Minh Sơn, Chất lượng cuộc sống của người bệnh ghép thận đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy và các yếu tố liên quan, TNU Journal of Science and Technology, 2024, 229.05: 27-34.
[3] Nguyễn Thị Hòa, So sánh tác dụng duy trì mê của Desfluran với Sevofluran trong gây mê để phẫu thuật cột sống thắt lưng tư thế nằm sấp, Tạp chí Y học Việt Nam, 2023, 525(2), 185-189.
[4] Trịnh Thị Yến, Đánh giá tác dụng lên độ mê và chất lượng hồi tỉnh của Desfluran trong phẫu thuật u não, Luận văn bác sỹ chuyên khoa II,
Trường Đại học Y Hà Nội, 2020.
[5] Jakobsson J, Desflurane: A clinical update of a third‐generation inhaled anaesthetic, Acta Anaesthesiologica Scandinavica, 2012, 56(4), 420-432.
[6] Schmid Sebastian, Jungwirth Bettina, Anaesthesia for renal transplant surgery an update, European Journal of Anaesthesiology, 2012, 29(12):552-558.
[7] Wu Yun, Jin Shiyun, Zhang Lei, Cheng Jie, Hu Xianwen, Chen Hong, Zhang Ye, Minimum Alveolar Concentration-Awake of Sevoflurane
Is Decreased in Patients With End-Stage Renal Disease, Anesthesia & Analgesia, 2019, 128(1): p 77-82.
[8] Fandino Wilson, Understanding the physiological changes induced by mannitol: from the theory to the clinical practice in neuroanaesthesia, Journal of Neuroanaesthesiology and Critical Care, 2017, 4.03: 138-146.
[9] Sripriya R, Ravindran Charulatha, Murugesan Ravishankar, Comparison of recovery characteristics with two different washout techniques of Desflurane anaesthesia: A randomised controlled
trial, Indian Journal of Anaesthesia, 2020, 64(9): 756-761.