1. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI CHOLESTEATOMA BẨM SINH TAI GIỮA TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi cholesteatoma bẩm sinh tai giữa tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 28 trẻ em được chẩn đoán cholesteatoma bẩm sinh tai giữa và được phẫu thuật nội soi lấy khối cholesteatoma tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ ngày 1/1/2022 đến 30/7/2023.
Kết quả: Sau phẫu thuật 1 ngày, 7 ngày và 14 ngày, không ghi nhận bệnh nhân nào có biểu hiện nôn hoặc liệt mặt. Ngày đầu tiên sau phẫu thuật, 67,85% trẻ có biểu hiện đau, quấy khóc, phải dùng đến thuốc giảm đau. Đến ngày thứ 7, chỉ còn 3 bệnh nhân (10,71%) có cảm giác đau nhẹ, không dùng đến thuốc giảm đau và sau 14 ngày, không còn bệnh nhân nào có biểu hiện đau tai. Có 2 bệnh nhân (7,15%) xuất hiện tình trạng chảy mủ tai vào ngày thứ 14. Kết quả sau 3 tháng, tỷ lệ màng nhĩ liền, sáng, bóng là 82,14%; tỷ lệ màng nhĩ thủng là 7,14%; có 1 bệnh nhân (3,57%) tái phát.
Kết luận: Phát hiện sớm cholesteatoma bẩm sinh qua nội soi tai mũi họng là cần thiết và có ý nghĩa trong điều trị, tránh biến chứng và tái phát sau phẫu thuật.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Cholesteatoma bẩm sinh tai giữa, phẫu thuật nội soi.
Tài liệu tham khảo
[2] Levenson M.J, Parisier S.C et al, A review of twenty congenital cholesteatomas of the middle ear in children, Otolaryngology - Head and Neck Surgery, 1986, 94 (6), pp. 560-567.
[3] Nelson Gilberto, Sara Custodio, Middle ear congenital cholesteatoma: systematic review, meta-analysis and insights on its pathogenesis, European Archives of oto-Rhino-Laryngology, 2008, 277, pp. 987-998.
[4] Potsic W.P, Korman S.B et al, Congenital cholesteatoma: 20 years' experience at The Children's Hospital of Philadelphia. Otolaryngology - Head and Neck Surgery, 2002, 126 (4), pp. 409-414.
[5] Cao Minh Thành, Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng viêm tai giữa mạn tổn thương xương con và đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình xương con, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội, 2008.