22. KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ SAU SINH CỦA SẢN PHỤ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN DI LINH, LÂM ĐỒNG NĂM 2024 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Nguyễn Thị Thanh Thùy1, Bùi Hoài Nam2, Đào Xuân Vinh3, Phạm Văn Quang4, Lê Thành Quang1
1 Trung tâm Y tế huyện Di Linh
2 Viện Khoa học Môi trường, Biển và Hải đảo
3 Trường Đại học Thăng Long
4 rung Tâm Y tế huyện Bình Lục

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Sữa mẹ là nguồn thức ăn quý giá nhất đối với trẻ nhỏ, không có loại thực phẩm nào có thể so sánh được. Thực tế tại nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ chưa cao. Hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào về kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của sản phụ và các yếu tố liên quan tại Trung tâm Y tế huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
Mục tiêu: 1. Mô tả kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ sau sinh của sản phụ tại Trung tâm Y tế huyện Di Linh, Lâm Đồng năm 2024;
2. Phân tích một số yếu tố liên quan tại Trung tâm Y tế huyện Di Linh, Lâm Đồng năm 2024.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có phân tích trên 380 sản phụ sau sinh
tại khoa Chăm sóc sức khoẻ sinh sản và Phụ sản, Trung tâm Y tế huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng.
Kết quả: Tỷ lệ đối tượng có kiến thức chung về nuôi con bằng sữa mẹ sau sinh đạt 60,3%, thực hành chung đúng về nuôi con bằng sữa mẹ sau sinh chỉ đạt 47,9%. Với phân tích hồi quy đa biến, các yếu tố có mối liên quan đến kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ có ý nghĩa thống kê với p<0,05 gồm: Nhóm tuổi (OR=5,587;95%CI=1,990-15,68); Nơi cư trú (OR=2,399;95%CI=1,131-5,086); Giới tính (OR=1,705; 95%CI=1,057-2,750). Kiến thức đúng nuôi con bằng sữa mẹ ở bà mẹ có mối liên đế thực hành đúng có ý nghĩa thống kê với p<0,05 (OR=2,621, 95%CI=1,710-4,017).
Kết luận: Tỷ lệ đối tượng có kiến thức chung đúng về nuôi con bằng sữa mẹ đạt 60,3%, thực hành chung đúng chỉ đạt 47,9%. Có mối liên quan giữa kiến thức đúng về nuôi con bằng sữa mẹ với nhóm tuổi, nơi cư trú, giới tính và có mối liên quan giữa giữa kiến thức đúng nuôi con bằng sữa mẹ và thực hành đúng.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Hoàng Thị Nam Giang, Yếu tố liên quan đến thực hành nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn ở trẻ ≤ 6 tháng tuổi ở Đà Nẵng và Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Vol 21, No.7.2023, tr.94-100.
[2] Nguyễn Thị Liên, Kiến thức và thực hành cho trẻ búsớmsausinhvàbúmẹhoàntoàncủabàmẹ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2020, Tạp chí Khoa học Điều dưỡng – Tập 04 – Số 02 (2021), tr.102-108.
[3] Trần Thị Nhi, Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sau sinh tại khoa sản ở bệnh viên đa khoa trung tâm tỉnh Lạng Sơn năm 2021, Tạp chí Y học Việt Nam tập 504- Tháng 7- Số 1 – 2021, tr.162-165
[4] Huỳnh Thị Ngọc Thảo, Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của sản phụ và một số yếu tố liên quan tại khoa sản – Bệnh viện đa khoa Thanh Vũ Medic Bạc Liêu, Tạp chí Điều Dưỡng Việt Nam-2022-Số 38 – tr.50-55
[5] Ngô Thị Thanh Thảo, Tỷ lệ kiến thức, thực hành cho trẻ bú mẹ sau sinh của các bà mẹ sinh ngã âm đạo tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2017, Nghiên cứu khoa học Bệnh viện Hùng Vương năm 2018, tr.47-28.
[6] Trần Minh Tiến, Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn của bà mẹ có con dưới 2 tuổi đến khám và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022, Tạp chí Khoa học và công nghệ đại học Thái Nguyên, số 14, 2022, tr.16-21.
[7] Đào Huỳnh Tuấn Tú, Khảo sát Kiến thức, thái độ, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi và một số yếu tố liên quan tại thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai năm 2022-2023, Tạp chí Y dược Cần Thơ, số 66, 2023, tr.149-156.