19. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN MÓC, GIUN MỎ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN TẠI TRUNG TÂM Y TẾ THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG, VIỆT NAM
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun móc, giun mỏ ở bệnh nhân tăng bạch cầu ái toan tại Trung tâm Y tế thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 137 bệnh nhân có bạch cầu ái toan ≥ 300 tế bào/mm³ tại Trung tâm Y tế thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Mẫu phân của bệnh nhân được xử lý bằng kỹ thuật soi tươi và phương pháp Willis nhằm xác định tình trạng nhiễm giun móc, giun mỏ và phân tích các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm.
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm giun móc, giun mỏ ở bệnh nhân tăng bạch cầu ái toan là 8%. Các yếu tố liên quan gồm: nghề nông, trình độ học vấn, thói quen đi chân đất, tay trần, không dùng thuốc tẩy giun định kỳ, triệu chứng tiêu hóa, thiếu máu, nồng độ hemoglobin và số lượng tiểu cầu. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy thiếu máu và tiếp xúc với đất liên quan đến nhiễm giun móc, giun mỏ.
Kết luận: Trong quần thể nghiên cứu, 8% bệnh nhân tăng bạch cầu ái toan được xác định nhiễm giun móc, giun mỏ, phản ánh nguy cơ lây nhiễm vẫn hiện diện tại khu vực khảo sát. Việc can thiệp các hành vi nguy cơ như đi chân đất, tiếp xúc trực tiếp với đất, không sử dụng thuốc tẩy giun định kỳ, cùng với tăng cường tầm soát thiếu máu là cần thiết nhằm phát hiện sớm và kiểm soát hiệu quả tình trạng nhiễm giun.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Giun móc, tăng bạch cầu ái toan, yếu tố liên quan, Bình Dương.
Tài liệu tham khảo
[2]. Kuang F.L. Approach to Patients with Eosinophilia. Med Clin North Am, 2020, 104 (1): 1-14.
[3]. Phan Tấn An. Nghiên cứu nhiễm ký sinh trùng đường ruột trên bệnh nhân có bạch cầu ái toan tăng. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành kỹ thuật xét nghiệm y học, Trường Đai học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, 2020.
[4]. Đinh Xuân Tuấn Anh, Tôn Nữ Phương Anh. Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng đường ruột, sự thay đổi công thức máu trước và sau khi điều trị, các yếu tố liên quan của bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Tạp chí Y Dược học, Trường đại học Y Dược Huế, 2017, 7 (4): 62-68.
[5]. Lê Thị Cẩm Ly và cộng sự. Nghiên cứu tỷ lệ, đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng nhiễm bệnh ký sinh trùng đường ruột trên bệnh nhân nội trú tại Khoa Nội tiêu hóa - Huyết học lâm sàng, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2022-2023. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 2024 (72): 193-198.
[6]. Hoàng Thị Minh Trang và cộng sự. Tỷ lệ nhiễm và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun móc, giun mỏ (Ancylostoma duodenale/Necator americanus) ở học sinh tiểu học tại xã Ea Pô, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 2023 (59): 46-53.
[7]. Nguyễn Thị Kim Chi và cộng sự. Thực trạng nhiễm giun móc/mỏ và thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tại tỉnh Quảng Nam năm 2021. Tạp chí Y học Dự phòng, 2023, 33 (3): 98-106.
[8]. Đỗ Trung Dũng, Nguyễn Lương Tình, Trần Huy Thọ. Thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, năm 2019. Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 2023, 2 (122): 15-23.
[9]. Trần Trinh Vương và cộng sự. Tỷ lệ nhiễm giun móc, giun mỏ và một số yếu tố liên quan ở người dân xã Thanh Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh năm 2022. Tạp chí Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, 2022, 3 (129): 3-13.
[10]. Okoyo C, Campbell S.J, Williams K, Simiyu E, Owaga C, Mwandawiro C. Prevalence, intensity and associated risk factors of soil-transmitted helminth and schistosome infections in Kenya: Impact assessment after five rounds of mass drug administration in Kenya. PLoS Negl Trop Dis,2020, 14 (10): e0008604.
[11]. Nguyễn Thị Cẩm Hồng và cộng sự. Tình hình nhiễm và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun sán trên sinh viên Khoa Khoa học sức khỏe tại Trường Đại học Cửu Long năm 2022-2023. Tạp chí Y học Việt Nam, 2023, (529): 366-370.