1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN BỆNH U MÁU SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG

Lò Đại Thủy1, Nguyễn Duy Anh2, Vũ Huy Lượng1,3, Lê Hữu Doanh1,3
1 Trường Đại học Y Hà Nội
2 Bệnh viện Da liễu Hà Nội
3 Bệnh viện Da liễu Trung ương

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

 Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh u máu sơ sinh tại Bệnh viện Da Liễu Trung ương từ tháng 7/2024 đến tháng 7/2025.


Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 141 bệnh nhân được chẩn đoán u máu sơ sinh đến khám và điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2024 đến tháng 7/2025.


Kết quả: Trong tổng số 141 bệnh nhân nghiên cứu, tuổi trung bình của các bệnh nhân đến khám là 0,51 tuổi. 52 trẻ nam (36,88%), 89 trẻ nữ (63,12%); 130 trẻ (92,2%) thuộc thể nông, 11 trẻ (7,8%) thuộc thể hỗn hợp. Cân nặng trung bình khi sinh 3062g, tuổi mẹ trung bình 28,92 tuổi, chỉ có 5 bệnh nhân (3,55%) có tiền sử họ hàng bậc I có u máu. Trong tổng số các bệnh nhân, con lần 1 chiếm đa số (61,11%), con lần 2 chiếm 30,56%, chỉ có 8,33% là con lần 3. Tổn thương u máu xuất hiện nhiều nhất ở đầu mặt cổ (43,97%); ít gặp hơn ở thân mình (23,4%) và chi trên (19,86%); ít gặp nhất ở chi dưới (12,77%). 3 bệnh nhân (2,13%) có tiền sử liên quan đến thai sản; và 3 bệnh nhân (2,13%) có biến chứng loét và chảy máu.


Kết luận: U máu sơ sinh là tổn thương lành tính, hay gặp ở trẻ nữ, ít có mối liên quan giữa u máu và các yếu tố nguy cơ như tuổi của mẹ khi sinh cao, sơ sinh nhẹ cân, tiền sử gia đình, tiền sử sản khoa. Tổn thương gặp nhiều nhất ở vùng đầu cổ và ít gặp nhất ở chi dưới.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh da liễu (Ban hành kèm theo Quyết định số 4416 ngày 06 tháng 12 năm 2023).
[2] Nguyễn Văn Thường. Hình ảnh lâm sàng, chẩn đoán và điều trị trong chuyên ngành da liễu, tập 2. Nhà xuất bản Y học, 2019.
[3] Casanova D, Norat F, Bardot J, Magalon G. Les hémangiomes cutanés: aspects cliniques. Plastique esthétique, 2006, 51, p. 287-292.
[4] Ngô Anh Tú. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật u mạch máu trẻ em. Trường Đại học Y Hà Nội, 2008.
[5] Drolet B.A, Haggstrom A.N, Prospective study of hemangiomas: demographic, prenatal, and perinatal characteristics. J Pediatr, 2007, 150, p.
291-294.
[6] Dhumale S.B, Sharma S, Gulbake A. AnoGenital Warts and HIV Status - A Clinical Study. J Clin Diagn Res JCDR, 2017, 11 (1): WC01- WC04. doi: 10.7860/JCDR/2017/24610.9171
[7] Maleville J, Taieb A, Roubaud E et al. Hémangiomes cutanés immatures: études
épidémiologiques de 351 cas. Ann Dermatol vénér, 1985, 112 (603): p. 8.
[8] Samet S. Les hémangiomes cutanés immatures. À propos des 108 cas, 1995.
[9] Hidiano A, Nakajima S. Earlist features of the strabery marks in the newborn. Br J Dermatol, 1872, 87 (138), p. 44.
[10] Enjolras O, Breviere G.M, LemarchandVenencie F. Les Hémangiomes immatures de H’enfant. Rev Prat, 1992, 42 (16), p. 7.
[11] Reizine D, Enjolras O, Riche M.C et al. Angiomes cervicocéphaliques superficiels.
Press Med, 1985, 14 (1866), p. 70.
[12] Nguyễn Việt Tân. Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng u mạch máu ở trẻ em. Trường Đại học Y Hà Nội, 2011.
[13] Glowacki J, Fin M.C, Mulliken B.J et al. Congenital vascular lesions: clinical application of a new classification. J ped Surg, 1983, 18 (6), p. 894-900.