KẾT QUẢ XA ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở TRẺ EM BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI MỘT ĐƯỜNG RẠCH QUA RỐN

Le Minh Quan, Tran Ngoc Son

Main Article Content

Abstract

Mục tiêu: Đánh giá kết quả xa của phẫu thuật nội soi một đường rạch qua rốn trong điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em, bao gồm biến chứng muộn, tính thẩm mỹ và chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật.


Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 150 bệnh nhi được phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ (loại I và IVA theo Todani) tại Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn giai đoạn 1/2012-12/2019. Các biến số được phân tích gồm đặc điểm lâm sàng, yếu tố nguy cơ, biến chứng muộn, sỏi đường mật, hẹp miệng nối, đánh giá chất lượng cuộc sống theo GIQLI và tính thẩm mỹ sẹo theo VAS.


Kết quả: Thời gian theo dõi trung bình 10,66 ± 1,5 năm. Tỷ lệ biến chứng muộn 8% (12/150): nhiễm trùng đường mật không kèm sỏi 4 trường hợp, nhiễm trùng đường mật kèm sỏi trong gan 7 trường hợp và tắc ruột do dính 1 trường hợp. Không có tử vong hay tái phát. Điểm GIQLI trung bình 134,4 ± 3,6/144, cho thấy chất lượng sống tốt; điểm VAS trung bình 9,1 ± 0,6, phản ánh mức độ hài lòng thẩm mỹ cao. Không ghi nhận trường hợp ung thư hóa. Các yếu tố nguy cơ biến chứng gồm: loại nang IVA, thành nang dày, tăng bilirubin trực tiếp và viêm đường mật trước mổ.


Kết luận: Phẫu thuật nội soi một đường rạch qua rốn là phương pháp an toàn, hiệu quả, với tỷ lệ biến chứng muộn thấp, mang lại kết quả thẩm mỹ và chất lượng sống cao. Không ghi nhận ung thư hóa sau hơn 10 năm theo dõi. Cần tiếp tục theo dõi định kỳ lâu dài để phát hiện sớm các biến chứng muộn và nguy cơ ác tính.

Article Details

References

[1] Farello G.A, Cerofolini A, Rebonato M, Bergamaschi G, Ferrari C, Chiappetta A. Congenital choledochal cyst: video-guided laparoscopic treatment. Surgical laparoscopy & endoscopy, 1995, 5 (5): 354-8.
[2] Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Liêm, Vũ Xuân Hoàn. Phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị nang ống mật chủ ở trẻ em. Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tập 17, phụ bản của số 3: 80-84.
[3] Lee J.H, Kim S.H, Kim H.Y, Choi Y.H, Jung SE, Park K.W. Early experience of laparoscopic choledochal cyst excision in children. Journal of the Korean Surgical Society, 2013, 85 (5): 225-9.
[4] Urushihara N, Fukumoto K, Fukuzawa H et al. Long-term outcomes after excision of choledochal cysts in a single institution: operative procedures and late complications. Journal of pediatric surgery, 2012, 47 (12): 2169-174.
[5] Gang S, Kim P.H, Kwon H, Yoon H.M, Namgoong J.M. Risk factors for postoperative stone formation in pediatric choledochal cysts: a study of 457 cases. Sci Rep, 2025, 15 (1): 9235.
[6] Mandelia A, Verma A, Kapoor R et al. Laparoscopic excision of choledochal cysts with Roux-en-Y hepaticojejunostomy in children: Surgical technique, experience, and outcomes. Journal of Indian Association of Pediatric Surgeons, 2025, 30 (4): 497-507.
[7] Ohashi T, Wakai T, Kubota M et al. Risk of subsequent biliary malignancy in patients undergoing cyst excision for congenital choledochal cysts. Journal of gastroenterology and hepatology, 2013, 28 (2): 243-247.
[8] Ryu H.S, Lee J.Y, Kim D.Y, Kim S.C, Namgoong J.M. Minimally-invasive neonatal surgery: Laparoscopic excision of choledochal cysts in neonates. Annals of surgical treatment and research, 2019, 97 (1): 21-26.