16. UNG THƯ BIỂU MÔ HỖN HỢP THẦN KINH-NỘI TIẾT VÀ KHÔNG THẦN KINH-NỘI TIẾT CỦA CỔ TỬ CUNG: BÁO CÁO LOẠT CA 17 TRƯỜNG HỢP VÀ TỔNG HỢP Y VĂN

Le Tran Thao Nhi, Vo Thi Ngoc diem, Hoang Thang, Thai Anh Tu

Main Article Content

Abstract

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và giải phẫu bệnh trong 17 trường hợp ung thư biểu mô hỗn hợp thần kinh-nội tiết và không thần kinh-nội tiết của cổ tử cung.


Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca, hồi cứu trên 17 trường hợp ung thư biểu mô hỗn hợp thần kinh-nội tiết và không thần kinh-nội tiết của cổ tử cung.


Kết quả: Triệu chứng thường gặp nhất là xuất huyết âm đạo (70,6%). Kích thước u có liên quan đến tình trạng di căn hạch (p = 0,032, kiểm định Mann-Whitney U). Thành phần thần kinh-nội tiết chủ yếu thuộc loại tế bào nhỏ (88,2%) và thành phần không thần kinh-nội tiết phổ biến là ung thư biểu mô tuyến (82,4%). Synaptophysin, Chromogranin A, CD56 và p16 dương tính lần lượt trong 88,2%, 41,2%, 68,8% và 82,4% các trường hợp. Chỉ 33,3% có đồng biểu hiện Chromogranin A và CD56.


Kết luận: Ung thư biểu mô hỗn hợp thần kinh-nội tiết và không thần kinh-nội tiết của cổ tử cung hiếm gặp, với thành phần không thần kinh-nội tiết thường là ung thư biểu mô tuyến. Kích thước u trung vị ở nhóm di căn hạch cao hơn 1,41 lần so với nhóm không di căn hạch. Synaptophysin có tỷ lệ dương tính cao nhất trong 3 dấu ấn thần kinh-nội tiết, trong khi CD56 và Chromogranin A có tỷ lệ đồng dương tính thấp nhất.

Article Details

References

[1] Emerson R.E et al. Cervical carcinomas with neuroendocrine differentiation: A Report of 28 cases with immunohistochemical analysis and molecular genetic evidence of common clonal origin with coexisting squamous and adenocarcinomas. Int J Gynecol Pathol, 2016, 35 (4): p. 372-84.
[2] Huang R et al. Diagnostic value of four neuroendocrine markers in small cell neuroendocrine carcinomas of the cervix: a meta-analysis. Sci Rep, 2020, 10 (1): p. 14975.
[3] Inzani F et al. Neuroendocrine carcinoma of the uterine cervix: a clinicopathologic and immunohistochemical study with focus on novel markers (Sst2-Sst5). Cancers (Basel), 2020, 12 (5): p. 1211.
[4] Kuji S et al. Immunosensitivity and specificity of insulinoma-associated protein 1 (INSM1) for neuroendocrine neoplasms of the uterine cervix. J Gynecol Oncol, 2023, 34 (1): p. e1.
[5] Masuda M et al. Clonal origin and lineage ambiguity in mixed neuroendocrine carcinoma of the uterine cervix. Am J Pathol, 2024, 194 (3): p. 415-429.
[6] Tempfer C.B et al. Neuroendocrine carcinoma of the cervix: a systematic review of the literature. BMC Cancer, 2018, 18 (1): p. 530.
[7] Salvo G et al. Clinicopathologic characteristics, oncologic outcomes, and prognostic factors in neuroendocrine cervical carcinoma: a neuroendocrine cervical tumor registry study. Int J Gynecol Cancer, 2023, 33 (9): p. 1359-1369.
[8] Yu L et al. Expression and clinical significance of a new neuroendocrine marker secretagogin in cervical neuroendocrine carcinoma. J Clin Pathol, 2021, 74 (12): p. 787-795.