27. CƠ CẤU BỆNH TẬT VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA HUYỆN MỸ ĐỨC, HÀ NỘI NĂM 2024
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả cơ cấu bệnh tật của người cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa huyện Mỹ Đức, Hà Nội năm 2024 và một số yếu tố liên quan.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu sử dụng dữ liệu hồ sơ bệnh án người cao tuổi (≥ 60 tuổi) được điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa huyện Mỹ Đức từ 1/1/2024 đến 31/12/2024. Thiết kế nghiên cứu mô tả, hồi cứu số liệu.
Kết quả: Trong năm 2024, nhóm bệnh không lây nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất (77,6%); tiếp theo là nhóm bệnh lây nhiễm (18,8%) nhóm tai nạn, thương tích và ngộ độc chiếm tỷ lệ thấp nhất (3,6%). Bệnh lý thuộc chương X (bệnh hệ hô hấp) có tỷ lệ cao nhất (20%), tiếp theo là các chương XIII (bệnh cơ xương khớp và mô liên kết) với 17%, chương VI (bệnh hệ thần kinh) với 10%, và chương XI (bệnh hệ tiêu hóa) với 10%. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh không lây nhiễm là người bệnh từ 80 tuổi trở lên và sống ở thành thị. Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh lây nhiễm là người dân nông thôn và thời gian từ tháng 6 đến tháng 11. Các yếu tố làm tăng nguy cơ tai nạn, thương tích và ngộ độc là người bệnh từ 80 tuổi trở lên và sử dụng bảo hiểm y tế.
Kết luận: Người cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Đa khoa huyện Mỹ Đức chủ yếu mắc bệnh không lây nhiễm. Các yếu tố liên quan đến bệnh không lây nhiễm là tuổi từ 80 tuổi trở lên và sống ở thành thị.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Cơ cấu bệnh tật, mô hình bệnh tật, người cao tuổi, điều trị nội trú.
Tài liệu tham khảo
[2] Bộ Y tế. Tăng cường năng lực kiểm soát bệnh không lây nhiễm sau đại dịch. Accessed May 21, 2025. https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo/-/asset_publisher/TW6LTp1ZtwaN/content/tang-cuong-nang-luc-kiem-soat-benh-khong-lay-nhiem-sau-ai-dich?utm_source=chatgpt.com
[3] Tổng cục Thống kê. Dự báo dân số Việt Nam 2014-2049. Accessed October 5, 2024. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2019/05/du-bao-dan-so-viet-nam-2014-2049-2/
[4] Đặng Xuân Tin. Thực trạng mô hình bệnh tật người cao tuổi quận Ba Đình, Hà Nội năm 2023, Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 2024, 7 (03), tr. 110-118. doi:10.54436/jns.2024.03.836
[5] Bashir S, Nazir S. Burden of Diseases among Elderly in Pakistan. Pak Inst Dev Econ, 2022, 57.
[6] Phan Chung Thùy Lynh, Trần Đức Sĩ, Lê Thanh Toàn. Mô hình bệnh tật người cao tuổi tại phòng khám bác sĩ gia đình Bệnh viện Lê Văn Thịnh năm 2022. Tạp chí Y học Việt Nam, 2024, 534 (1), tr. 156-160. doi:10.51298/vmj.v534i1.8059
[7] Trần Quang Tú, Trần Nhựt An, Đặng Thúy Hằng. Mô hình bệnh tật nội trú tại một Trung tâm Y tế tuyến huyện giai đoạn 2018-2020. Tạp chí Y học Việt Nam, 2023, 526 (1B), tr. 248-253. doi:10.51298/vmj.v526i1B.5456
[8] George L.S, Deshpande S. Morbidity pattern and its sociodemographic determinants among elderly population of Raichur district, Karnataka, India. J Fam Med Prim Care, 2017, 6 (2), p. 340-344. doi:10.4103/2249-4863.220025
[9] Lê Thị Quế, Vũ Văn Đại, Đào Thị Hoa, Đào Thị Thúy, Nguyễn Thanh Tùng. Cơ cấu bệnh và một số yếu tố liên quan tại Khoa Y học cổ truyền, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, từ năm 2017-2021. Tạp chí Y học Quân sự, 2023, số 367, tr. 54-58. doi:10.59459/1859-1655/JMM.392
[10] Supakul S, Park H.Y, Nguyen B.N, Giang K.B. Prevalence differences in major non-communicable diseases in a low-middle income country: a comparative study between an urban and a rural district in Vietnam. J Glob Health Sci, 2019,1 (2): e47. doi:10.35500/jghs.2019.1.e47