53. SO SÁNH TÁC DỤNG GÂY TÊ KHOANG CÙNG BẰNG HỖN HỢP LEVOBUPIVACAIN KẾT HỢP DEXAMETHASONE VỚI LEVOBUPIVACAIN ĐƠN THUẦN TRONG CÁC PHẪU THUẬT VÙNG DƯỚI RỐN Ở TRẺ EM
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành với nhằm so sánh hiệu quả vô cảm trong mổ, thời gian giảm đau sau mổ khi gây tê khoang cùng bằng Levobupivacain 0,2% (2 mg/kg) phối hợp Dexamethason 0,1 mg/kg cân nặng (nhóm I) với Levobupivacain 0,2% (2 mg/kg) đơn thuần (nhóm II) trong các phẫu thuật vùng dưới rốn ở trẻ em và so sánh ảnh hưởng lên hô hấp, tuần hoàn và một số tác dụng không mong muốn của hai phương pháp tại Khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện Nhi Thanh Hóa năm 2025.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên, có đối chứng, đối tượng là các bệnh nhi từ 6-72 tháng, có chỉ định phẫu thuật vùng dưới rốn và được vô cảm bằng phương pháp gây mê toàn thân phối hợp gây tê khoang cùng.
Kết quả: Chất lượng tê tốt theo Gunter ở cả hai nhóm đạt 93,6%. Thời gian giảm đau trung bình sau mổ nhóm I (557,66 ± 192,88 phút) dài hơn nhóm II(295,46 ± 78,91 phút), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01; điểm FLACC trung bình sau mổ, từ giờ thứ 4 trở đi nhóm I thấp hơn nhóm II; tổng lượng Paracetamol/24 giờ nhóm I (368,86 ± 167,31 mg), ít hơn ở nhóm II (618,57 ± 246,36 mg); số lần dùng thuốc giảm đau trong 24 giờ ở nhóm I (1,77 ± 0,68 lần) ít hơn nhóm II (3,06 ± 0,54 lần). Cả hai phương pháp vô cảm đều không gây suy tuần hoàn hay suy thở: tần số tim, tần số thở, huyết áp động mạch, SpO2 luôn luôn ổn định cả trong và sau mổ, không có thời điểm nào tần số thở, tim, huyết áp giảm < 20%. Mức độ và thời gian phục hồi vận động trung bình sau mổ ở hai nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê p > 0,05. Các tác dụng không mong muốn của phương pháp vô cảm thường nhẹ, không kéo dài và tự hết không cần can thiệp.
Kết luận: Gây tê khoang cùng trong các phẫu thuật vùng dưới rốn ở trẻ em bằng hỗn hợp Levobupivacain và Dexamethasone có thời gian giảm đau sau mổ kéo dài, giảm điểm đau và nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau cứu trợ trong 24 giờ sau phẫu thuật đáng kể so với nhóm gây tê khoang cùng bằng Levobupivacain đơn thuần.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Gây tê khoang cùng, Levobupivacain phối hợp Dexamethason, Levobupivacain đơn thuần, phẫu thuật vùng dưới rốn ở trẻ em.
Tài liệu tham khảo
[2] Alice E, Vinit G.W. Caudal epidural anesthesia for pediatric patients: a safe, reliable and effective method in developing countries. World Anaesthesia Issue, 2003, pp. 1-9.
[3] Arias M.G et al. Levobupivacaine: A long acting local anaesthetic, with less cardiac and neurotoxicity. Update in Anaesthesia. Pharmacology, 2002, 14 (7): 1.
[4] Dalens B.J, Mazoit J.X. Adverse effects of regional anesthesia in children. Drug Saf, 1998, 19 (4): 251-268.
[5] Ingelmo P.M, Wolfler A, Gualtieri E, et al. Levobupivacaine for caudal analgesia in children: a randomized, double-blind comparison with racemic bupivacaine. Paediatr Anaesth, 2005, 15 (6): 491-496.
[6] Phạm Quang Minh, Hoàng Thị Hà và cộng sự. So sánh hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật thoát vị bẹn ở trẻ em bằng gây tê thần kinh chậu bẹn chậu hạ vị với gây tê khoang cùng. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021, 509 (2): 359-362.
[7] Choudhary S, Dogra N et al. Evaluation of caudal Dexamethasone with Ropivacaine for post-operative analgesia in paediatric herniotomies: A randomised controlled study. Indian J Anaesth, 2016, 60 (1): 30-33.
[8] El-Feky H.M, Abd El Aziz A.M. Comparative study between Dexmedetomidine, Dexamethasone and Fentanyl as adjuvants to Bupivacaine and Lidocaine in caudal anesthesia for pediatric infraumbilical surgeries. The Egyptian Journal of Hospital Medicine, 2018, 70 (10): 1787-1793.
[9] Ivani G, De Negri P, Lonnqvist P.A et al. A comparison of three different concentration of Levobupivacaine for caudal block in children. Anesth Analg, 2003, 97 (2): 368-371.