36. ĐÁNH GIÁ THAY ĐỔI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG VÀ LÒNG TỰ TRỌNG SAU GHÉP DA Ở BỆNH NHÂN LOÉT CHÂN TĨNH MẠCH TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe và lòng tự trọng ở bệnh nhân Loét chân do suy tĩnh mạc trước và sau ghép da từng lớp bằng SF-36 và Rosenberg Self-Esteem Scale (RSE).
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 50 bệnh nhân ≥18 tuổi được chẩn đoán vết loét diện tích ≥5 cm², đủ điều kiện ghép da theo chỉ định phẫu thuật, được siêu âm Doppler động – tĩnh mạc. Chất lượng cuộc sống và RSE được đánh giá tại bốn thời điểm: trước mổ, sau 30, 90 và 180 ngày.
Kết quả: Tất cả tám lĩnh vực SF-36 cải thiện có ý nghĩa (p<0,01). Điểm chức năng thể chất tăng từ 30,3±14,5 lên 88,4±14,4 sau 180 ngày; đau thể chất từ 36,3±8,4 lên 73,9±12,9; vai trò thể chất từ 29,1±21,9 lên 94,4±16,1. Các khía cạnh tinh thần – xã hội như sức khỏe tâm thần tăng từ 50,8±8,0 lên 69,1±17,7; sinh lực từ 38,1±9,7 lên 80,5±10,7. Điểm RSE giảm mạnh từ 25,9±3,5 xuống 5,2±2,5 sau 180 ngày, phản ánh sự cải thiện đáng kể về lòng tự trọng.
Kết luận: Ghép da từng lớp không chỉ thúc đẩy liền vết loét mà còn mang lại lợi ích toàn diện về thể chất, tâm lý và xã hội cho bệnh nhân VLUs. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng đầu tiên tại Việt Nam về hiệu quả đa chiều của STSG sau theo dõi 6 tháng.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Loét chân tĩnh mạch, ghép da từng lớp, chất lượng cuộc sống, SF-36, thang đo Rosenberg
Tài liệu tham khảo
[2] Serra R., Rizzuto A., Rossi A. và cộng sự. (2017). Skin grafting for the treatment of chronic leg ulcers - a systematic review in evidence-based medicine. Int Wound J, 14(1), 149–157.
[3] Humrich M., Goepel L., Gutknecht M. và cộng sự. (2018). Health-related quality of life and patient burden in patients with split-thickness skin graft donor site wounds. Int Wound J, 15(2), 266–273.
[4] Salomé G.M., Blanes L., và Ferreira L.M. (2014). The impact of skin grafting on the quality of life and self-esteem of patients with venous leg ulcers. World J Surg, 38(1), 233–240.
[5] Nguyễn Thị Thu Hiền, Lê Thanh Tùng, Tô Minh Tuấn và cộng sự. (2020). Chất lượng cuộc sống của người bệnh chạy thận nhân tạo chu kỳ sau giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2020. Tạp Chí Khoa Học Điều Dưỡng, 3(3), 65–76.
[6] Hạnh T.T.K., Then T.V., Thương N.T.H. và cộng sự. (2025). Mối quan hệ giữa trầm cảm, lo âu, stress với lòng tự trọng ở sinh viên Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng. Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng, 36, 129–136.
[7] Jaller J.A., Herskovitz I., Borda L.J. và cộng sự. (2018). Evaluation of Donor Site Pain After Fractional Autologous Full-Thickness Skin Grafting. Adv Wound Care, 7(9), 309–314.
[8] Nguyen Thi Thanh và Nguyen Hoai Nam (2020). Quality of life and associated factors in patients with lower limb chronic venous insufficiency. Tạp Chí Phẫu Thuật Tim Mạch Và Lồng Ngực Việt Nam, 28, 61–66.
[9] Lê Nguyệt Minh, Cao Thị Hồng Yến, Vũ Đăng Lưu và cộng sự. (2022). ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TRUNG HẠN SUY TĨNH MẠCH MẠN TÍNH BẰNG PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP NỘI MẠCH. Tạp Chí Điện Quang Học Hạt Nhân Việt Nam, (36), 35–41.
[10] Younis A.S., Abdelmonem I.M., Gadullah M. và cộng sự. (2023). Hydrogel dressings for donor sites of split-thickness skin grafts. Cochrane Database Syst Rev, 8(8), CD013570.
[11] Manek Y.B., Jajoo S., và Mahakalkar C. (2024). A Comprehensive Review of Evaluating Donor Site Morbidity and Scar Outcomes in Skin Transfer Techniques. Cureus, 16(2), e53433.