23. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN NHIỄM NẤM DA ĐẾN KHÁM TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2024-2025

Phan Hoàng Đạt1, Nguyễn Thị Thảo Linh1, Trịnh Thị Hồng Của1, Nguyễn Thị Pha1, Võ Thành Trí2, Nguyễn Chí Nguyễn3, Lê Nguyễn Uyên Phương1, Huỳnh Gia Bảo1
1 Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
2 Bệnh viện Quốc tế Phương Châu
3 Bệnh viện Đa khoa Cái Nước

Nội dung chính của bài viết

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Nhiễm nấm da là bệnh phổ biến trong các bệnh da liễu tại Việt Nam. Việc nhận biết và mô tả những đặc điểm lâm sàng trên những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm nấm da giúp các bác sĩ có thể định hướng trong công tác chuẩn đoán và điều trị về sau.


Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân nhiễm nấm da đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ.


Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 92 bệnh nhân nhiễm nấm da đến khám tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2024-2025.


Kết quả: Những bệnh nhân nhiễm nấm da đến khám có tổn thương chủ yếu ở thân (65,2%); hình thái tổn thương chủ yếu là đỏ da (90,2%), vảy da (60,9%); số lượng tổn thương trên 5 và diện tích tổn thương hẹp chiếm tỷ lệ cao nhất (53,3%); hầu hết bệnh nhân có thời gian mắc bệnh trước khi đến khám là dưới 3 tháng (73,9%).


Kết luận: Đặc điểm lâm sàng thường gặp ở những bệnh nhân nhiễm nấm da là đỏ da, vảy da và vị trí tổn thương ở thân mình chiếm tỷ lệ cao nhất.

Chi tiết bài viết

Tài liệu tham khảo

[1] Jean L. Bolognia, Julie V. Schaffer, Lorenzo Cerroni. Dermatology. Imprint: Elsevier, 2024, USA, 1305-1323.
[2] Trần Cẩm Vân, Nguyễn Hữu Sáu. Tỉ lệ mắc bệnh và một số yếu tố liên quan của bệnh nấm nông trên các bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Da Liễu Trung ương trong giai đoạn 2017-2019. Tạp chí Y học Việt Nam, 2024, 535(1B): 155-158. doi: https://doi.org/10.51298/vmj.v535i1B.8411
[3] Nguyễn Thị Thảo Linh, Phan Hoàng Đạt, Lê Thị Cẩm Ly và cộng sự. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán vi nấm gây bệnh trên da bằng phương pháp soi trực tiếp và nuôi cấy định danh ở bệnh nhân đến xét nghiệm tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 2024, (71): 34-40. doi: https://doi.org/10.58490/ctump.2024i71.2072
[4] Võ Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thị Hiền Sương, Vũ Văn Thái và cộng sự. Thực trạng bệnh nấm da của bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Da Liễu Thái Bình. Tạp chí Y học Việt Nam, 2022, 515(6): 304-311.
[5] Liang, G., Zheng, X., Song, G., Zhang, M., Liu, J., Zang, X., Fu, M., & Liu, W. Adult Tinea capitis in China: A retrospective analysis from 2000 to 2019. Mycoses, 2020, 63(8): 876-888. doi: https://doi.org/10.1111/myc.13102
[6] Sacheli, R., Cuypers, L., Seidel, L., Darfouf, R., Adjetey, C., Lagrou, K., & Hayette, M. P. Epidemiology of Dermatophytes in Belgium: A 5-Year Survey. Mycopathologia, 2021, 186(3): 399-409.
[7] Usman, B., Rehman, A., Naz, I., & Anees, M. Prevalence and antifungal drug resistance of dermatophytes in the clinical samples from Pakistan. Acta Microbiologica et Immunologica Hungarica, 2021, 68(4): 291-296. doi: https://doi.org/10.1556/030.2021.01461
[8] Basak, P., Mallick, B., & Pattanaik, S. Prevalence of dermatophytic infections including antifungal susceptibility pattern of dermatophytes in a tertiary care hospital. International Journal of Research in Medical Sciences, 2019, 7(3):699-703. doi: https://doi.org/10.18203/2320-6012.ijrms20190461
[9] Nguyễn Thị Quỳnh, Trần Đăng Quyết. Một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân nấm da điều trị tại Bệnh viện Quân Y 103 từ tháng 9/2021 đến tháng 6/2022. Tạp chí Y Dược học Quân sự, 2022, (7): 80-90. doi: https://doi.org/10.56535/jmpm.v47i7.77