49. LO ÂU, TRẦM CẢM, STRESS VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở CÁC CẶP VỢ CHỒNG ĐIỀU TRỊ VÔ SINH TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan giữa lo âu, trầm cảm, stress với các yếu tố cá nhân cũng như hoàn cảnh gia đình ở bệnh nhân nữ tham gia điều trị vô sinh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 159 bệnh nhân nữ điều trị vô sinh tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11 năm 2024. Để đánh giá tỷ lệ và mức độ lo âu, trầm cảm, stress chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi DASS-21.
Kết quả: Tỷ lệ người vợ có dấu hiệu lo âu, trầm cảm, stress lần lượt là 24,5%, 13,8% và 8,8%. người vợ thuộc dân tộc khác (không phải dân tộc Kinh) có nguy cơ mắc dấu hiệu trầm cảm cao hơn 3,2 lần so với những người vợ là người Kinh với 95%CI: 1,0-9,5. Những người vợ không có hoạt động thể chất thì có nguy cơ mắc lo âu cao hơn 2,3 lần so với những người không mắc với 95%CI: 1,1-5,0. Thời gian vô sinh trung bình ở nhóm có lo âu là 50,6 tháng (42,6-58,6) và ở nhóm không lo âu là 29,9 tháng (21,3-38,5) (p<0,05). Ở nhóm trầm cảm là 48,8 tháng (41,3-56,2) và nhóm không trầm cảm là 28,7 tháng (18,1-39,4) tháng (p<0,05).
Kết luận: Lo âu, trầm cảm, stress vẫn chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong những đối tượng vô sinh. Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tỷ lệ lo âu, trầm cảm, stress là những người phụ nữ không phải là dân tộc Kinh, không có hoạt động thể chất. Thời gian phát hiện ra mình vô sinh cũng làm tăng nguy cơ mắc phải lo âu và trầm cảm.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
Lo âu, trầm cảm, stress, vô sinh, bệnh viện Phụ sản Trung ương, Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia
Tài liệu tham khảo
[2] Hasan, A., et al., Mental health status and the quality of life of infertile women receiving fertility treatment in Bangladesh: A cross-sectional study. PLOS Glob Public Health, 2023. 3(12): p. e0002680.
[3] Trần Nguyệt Quyên, L., T. Quang Huy, and T. Việt Dũng, THỰC TRẠNG LO ÂU, TRẦM CẢM VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở CÁC CẶP VỢ CHỒNG ĐIỀU TRỊ HIẾM MUỘN TẠI KHOA CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN TRUNG TÂM KIỂM SOÁT BỆNH TẬT TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2021. Tạp chí Y học Việt Nam, 2022. 513(1).
[4] Lê Minh Tâm, Nguyễn Văn Tuân, and Cao Ngọc Thành, Nghiên cứu khả năng tình dục của nam giới ở các cặp vợ chồng vô sinh và một số yếu tố ảnh hưởng. Tạp chí Phụ sản 2015. 13(1): p. 60-63.
[5] Đinh, K.O., et al., Đánh giá tình trạng lo âu và trầm cảm của các cặp vợ chồng thực hiện IVF và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times city năm 2021. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 2022. 5(04): p. 6-12.
[6] Pakpour, A.H., et al., Prevalence and risk factors of the female sexual dysfunction in a sample of infertile Iranian women. Arch Gynecol Obstet, 2012. 286(6): p. 1589-96.
[7] Ho, T.T.T., et al., Psychological burden in couples with infertility and its association with sexual dysfunction. 2020. 38(1): p. 123-133.
[8] Ngô Thị Yên, Tỷ lệ rối loạn tình dục và các yếu tố liên quan ở phụ nữ tuổi sinh đẻ tại thành phố Hồ Chí Minh. 2016, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
[9] Hồ Thị Thanh Tâm, Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn tình dục và các yếu tố liên quan ở cặp vợ chồng vô sinh. 2022, Trường Đại học Y - Dược Huế.
[10] Lotti, F. and M. Maggi, Sexual dysfunction and male infertility. Nature Reviews Urology, 2018. 15(5): p. 287-307.
[11] Nelson, C.J., et al., Prevalence and predictors of sexual problems, relationship stress, and depression in female partners of infertile couples. J Sex Med, 2008. 5(8): p. 1907-14.
[12] Oskay, U.Y., N.K. Beji, and H. Serdaroglu, The issue of infertility and sexual function in Turkish women. Sexuality and Disability, 2010. 28: p. 71-79.