5. SO SÁNH HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN THUỐC TÊ LIÊN TỤC VỚI TIÊM NGẮT QUÃNG TỰ ĐỘNG CÁC LIỀU NHỎ (PIEB) KHI GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG CHUYỂN DẠ
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: So sánh hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ của phương pháp truyền thuốc tê liên tục và tiêm ngắt quãng tự động các liều nhỏ thuốc tê khi gây tê ngoài màng cứng (NMC).
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh. Trên 100 BN phân bổ ngẫu nhiên 2 nhóm bằng nhau. BN gây tê NMC tại L3-4. Sau liều test 8 ml Ropivacain 0,1% với fentanyl 1µg/ml (chia 2 lần/ 5 phút). Nhóm P (PIEB) 8ml tiêm vào khoang NMC mỗi lần (Lockout 60 phút). Nhóm C (CEI) chạy liên tục 8ml/60 phút. Nếu điểm VAS ≥ 4 thì SP bấm PCA thêm 6 ml thuốc tê. Nếu BN VAS ≥ 4 thì cho liều cứu 6ml Lidocain 1%. Liều bolus ở nhóm P: 15 phút sau liều bolus của bơm tiêm điện (VAS ≥ 4). Liều bolus ở nhóm C: liều khi truyền liên tục mà VAS ≥ 4. Các tiêu chí đánh: Thời gian khởi tê, điểm đau VAS, liều cứu, lidocain (mg), ropivacain (mg) và fentanyl (µg), hài lòng sản phụ.
Kết quả: Điểm VAS thời điểm CTC mở hết, giai đoạn rặn đẻ, VAS ở khâu tầng sinh môn và kiểm soát tử cung nhóm P thấp hơn nhóm C, thêm 1 liều cứu của nhóm P là 12% thấp hơn so với nhóm C 28%, Lidocain nhóm P (113,4 ± 33,6 mg) thấp hơn nhóm C (128 ± 45,3 mg), Ropivacain nhóm P (47,8 ± 10,8 mg) thấp hơn nhóm C (54,5±11,4 mg), sự hài lòng của sản phụ nhóm P (96%) cao hơn so với nhóm C (84%) với p< 0,05.
Kết luận: Điểm VAS nhóm P thấp hơn nhóm C, liều cứu, lượng thuốc tê của nhóm P thấp hơn so với nhóm C. Sự hài lòng của sản phụ nhóm P rất hài lòng cao hơn có ý nghĩa so với nhóm C, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
tiêm ngắt quãng tự động các liều nhỏ (PIEB), gây tê ngoài màng cứng, chuyển dạ
Tài liệu tham khảo
[2] Munro A, George RB. Programmed Intermittent Epidural Boluses (PIEB): A Superior Technique for Maitenance of Labor Analgesia. Turk J Anaesthesiol Reanim. 2017;45(2):67-69. doi:10.5152/TJAR.2017.09032
[3] Wang X xue, Zhang X lan, Zhang Z xia, et al. Programmed intermittent epidural bolus in parturients. Medicine (Baltimore). 2022;101(5):e28742. doi:10.1097/MD.0000000000028742
[4] Atienzar MC, Palanca JM, Borras R, Esteve I, Fernandez M, Miranda A. Ropivacaine 0.1% with fentanyl 2 microg mL(-1) by epidural infusion for labour analgesia. Eur J Anaesthesiol. 2004;21(10):770-775. doi:10.1017/s0265021504000031
[5] Chora I, Hussain A. Comparison of 0.1% Ropivacaine-Fentanyl with 0.1% Bupivacaine-Fentanyl Epidurally for Labour Analgesia. Advances in Anesthesiology. 2014;2014:e237034. doi:10.1155/2014/237034
[6] Haidl F, Arne Rosseland L, Rørvik AM, Dahl V. Programmed intermittent boluses vs continuous epidural infusion in labor using an adrenaline containing solution: A randomized trial. Acta Anaesthesiol Scand. 2020;64(10):1505-1512. doi:10.1111/aas.13689
[7] George RB, Allen TK, Habib AS. Intermittent epidural bolus compared with continuous epidural infusions for labor analgesia: a systematic review and meta-analysis. Anesth Analg. 2013;116(1):133-144. doi:10.1213/ANE.0b013e3182713b26
[8] Đỗ Văn Lợi. Nghiên Cứu Hiệu Quả Giảm Đau Trong Chuyển Dạ Của Phương Pháp Gây Tê Ngoài Màng Cứng Do và Không Do Bệnh Nhân Tự Điều Khiển. Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Hà Nội; 2017.